Bản án 121/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 121/2019/HSST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân D huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 117/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Đồng Minh D, sinh năm 1956 tại huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Tiểu khu T, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 01/10; D tộc: Kinh; giơi tinh: Nam; tôn giao: Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Đồng Minh T (đã chết), con bà Nguyễn Thị T (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị Tiến và có 05 con; tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân:

- Ngày 21/11/2000 bị Tòa án nhân D huyện Mộc Châu xử phạt 24 tháng tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích).

- Ngày 14/10/2003 bị Tòa án nhân D huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích).

- Ngày 12/7/2012 bị Tòa án nhân D huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy. Đồng Minh D chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 25/01/2015 (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt, tạm giam, giữ từ ngày 24/4/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 24/4/2019 Đồng Minh D đi bộ từ nhà tại Tiểu khu T, thị trấn N, huyện M đến bản Chiềng Đi, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân nghiện chất ma túy. Khi đến nơi, D gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ D tộc Mông không quen biết 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng Heroine với giá 30.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, D cất giấu gói Heroine vào trong túi áo ngực bên trái đang mặc trên người rồi đi bộ về nhà. Đến 14 giờ 00 phút cùng ngày, D đang đi bộ trên đường D sinh của tiểu khu Chiềng Đi, thị trấn Nông Trường Mộc Châu thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong túi áo ngực bên trái đang mặc trên người của D 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng chất bột màu trắng nghi là Heroine. Đồng thời Đồng Minh D khai nhận gói chất bột màu trắng tổ công tác thu giữ là Heroine của D cất giấu mục đích để sử dụng. Căn cứ vào hành vi vi phạm của Đồng Minh D, tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật và dẫn giải Đồng Minh D về trụ sở Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ngày 24/4/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Viện kiểm sát nhân D huyện Mộc Châu và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã mở niêm phong, xác định khối lượng số chất bột màu trắng nghi là Heroine thu giữ của Đồng Minh D có khối lượng 0,17 gam, lấy 0,1 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu ký hiệu D.

Tại kết luận giám định số 810 ngày 25/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy; Loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,1 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,17 gam; Loại Heroine”.

Cáo trạng số: 117/CT-VKSMC ngày 10/6/2019 của Viện kiểm sát nhân Dhuyện Mộc Châu truy tố Đồng Minh D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân D huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đồng Minh D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt bị cáo như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đồng Minh D từ 21 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi: “Vật chứng vụ: Đồng Minh D. Bắt ngày 24/4/2019 (0,07 gam chất bột màu trắng nghi là Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu)”. Bên trong phong bì đựng 0,07 gam Heroine và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi: “Test thử ma túy của Đồng Minh D, ngày 24/4/2019. Kết quả: Âm tính”, bên trong đựng 01 test thử ma túy đã qua sử dụng đối với Đồng Minh D.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Đồng Minh D khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân D huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân D huyện Mộc Châu. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong vật chứng, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định và lời khai của người chứng kiên sư viêc.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 24/4/2019 Đồng Minh D đã có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,17 gam, mục đích để bản thân sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý. Bị cáo đã có 03 tiền án: Ngày 21/11/2000 bị Tòa án nhân D huyện Mộc Châu xử phạt 24 tháng tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích), ngày 14/10/2003 bị Tòa án nhân D huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích), ngày 12/7/2012 bị Tòa án nhân D huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy. Đồng Minh D chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 25/01/2015 (đã được xóa án tích). Bị cáo nhận thức hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,07 gam Heroine là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vỏ gói niêm phong ban đầu là vật không có giá trị sử dụng, đều cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy đối với Đồng Minh D là vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Đối với người phụ nữ D tộc Mông đã bán ma túy cho Đồng Minh D. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại dưới 45 ngày, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đồng Minh D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đồng Minh D 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 24/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Vật chứng vụ: Đồng Minh D. Bắt ngày 24/4/2019 : Bên trong đựng 0,07 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Đồng Minh D.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Đồng Minh D phải chiu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về