Bản án 121/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 121/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 109/2019/TLST-HS, ngày 02 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: VŨ VĂN T, sinh năm: 1966 tại huyện T, tỉnh Bắc Giang; Nơi thường trú: Phố T, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ văn hoá: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Văn D (Đã chết) và bà: Phạm Thị B, sinh năm 1932; Vợ là: Ngọ Thị T, sinh năm: 1981 và có 05 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 26/7/1997 Vũ Văn T bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Giang xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 31/10/2002 Vũ Văn T bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Giang xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Tổ chức đánh bạc”.

- Ngày 29/9/2004 Vũ Văn T bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bắc Giang xử phạt 03 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Ngày 27/8/2012 Vũ Văn T bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 26 tháng tù về các tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”.

- Ngày 29/7/ 2000 bị Công an xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang xử phạt 200.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Tiến T. Sinh năm: 1978.

Trú tại: Xóm V, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

2. Anh Phùng Xuân H. Sinh năm: 1985.

Trú tại: Khu 1, xã P, huyện P, tỉnh Phú Thọ. (Vắng mặt)

3. Chị Vũ Thị M. Sinh năm: 1981.

Trú tại: Xóm M, xã C, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

4. Anh Nguyễn Văn H. Sinh năm: 1973.

Trú tại: Xóm V, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt)

5. Anh Trần Văn H. Sinh năm: 1983.

Trú tại: Tổ dân phố M, thị trấn H, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt)

6. Chị Nguyễn Thị H. Sinh năm: 1966

Trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn H, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

7. Anh Nguyễn Văn H1. Sinh năm: 1962.

Trú tại: Thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Bắc Giang. (Có mặt)

8. Anh Ngô Văn T1. Sinh năm: 1972.

Trú tại: Xóm V, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt)

9. Chị Ngọ Thị T. Sinh năm: 1981.

Trú tại: Phố T, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang. (Có mặt)

10. Chị Nguyễn Thị L (Tên gọi khác Dương Ngọc L). Sinh năm: 1966.

Trú tại: Tổ 21, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 ngày 12/11/2018, Tổ công tác của Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà Nguyễn Văn H có một số đối tượng đang đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền. Khi tổ công tác đến thì một số đối tượng đi ra từ trong nhà bếp của gia đình H, phát hiện thấy tổ công tác một số đối tượng đã bỏ chạy còn một số đối tượng bị yêu cầu ở lại làm việc, gồm: Vũ Thị M; Nguyễn Văn H, sinh năm 1962; Nguyễn Tiến T; Phùng Xuân H; Nguyễn Thị H; Ngô Văn T; Nguyễn Văn H, sinh năm 1973.

Kiểm tra khu vực trong bếp nhà Nguyễn Văn H, tổ công tác phát hiện trên nền nhà có 02 đĩa sứ nhỏ; 01 đĩa sứ nhỏ đã bị vỡ đôi; 02 bát sứ nhỏ màu trắng; 04 mảnh bìa cát tông trên mặt xám không có chữ chỉ có các vòng tròn đen không đen có dấu hiệu bị xé rời từ một tấm bì nguyên có kích thước 30 x 35cm; 01 mảnh giấy kẻ ô ly nhiều số; 01 mảnh giấy vở học sinh được kẻ ngang một góc bị xé; 01 bút; 01 thanh tre; 01 con dao; 08 mẩu tre khô một mặt được bôi đen nghi là được bẻ ra từ 04 quân vị; 01 chiếu cói, tại thùng sơn đựng cám có 9.200.000 đồng (Nguyễn Thị H nhận là người đã để vào đó).

Quá trình làm việc các đối tượng đã tự giác giao nộp số tiền trên người như sau: Nguyễn Văn H, sinh năm 1962 giao nộp 11.115.000 đồng; Ngọ Thị T giao nộp 17.200.000 đồng; Vũ Thị M giao nộp 3.450.000 đồng; Trần Văn H giao nộp 3.500.000 đồng; Nguyễn Tiến T giao nộp 5.530.000 đồng; Phùng Xuân H giao nộp 40.000 đồng; Nguyễn Duy T giao nộp 290.000 đồng; Hoàng Văn H giao nộp 200.000 đồng; Ngô Văn T giao nộp 130.000 đồng.

Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản sự việc thu giữ vật chứng và đưa các đối tượng về Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Phú Bình để làm việc.

Tại cơ quan điều tra các đối tượng khai nhận như sau: Buổi trưa ngày 12/11/2018, Nguyễn Tiến T đến nhà Nguyễn Văn H chủ nhà (H là anh rể của T) để ăn cơm liên hoan mừng mua xe mô tô mới. Sau khi ăn uống xong, T nảy sinh ý định tổ chức đánh bạc nên T hỏi H cho T và mọi người đánh bạc tại nhà H và nói sẽ trả tiền công thuê địa điểm cho H, H đồng ý. Sau đó, T gọi điện thoại cho Nguyễn Văn H sinh năm 1962; Vũ Thị M, Vũ Văn T, Ngô Văn T và một số đối tượng khác đến nhà Nguyễn Văn H để đánh bạc. T phân công cho T2 canh gác tại đồi phía sau nhà H còn M là người thu tiền phế và làm hồ lỳ có các đối tượng khác đánh bạc. T thỏa thuận sẽ trả tiền công cho T2 và M mỗi người với số tiền là 200.000 đồng. Sau đó, lần lượt đối tượng nêu trên đi vào bếp nhà H đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa sát phạt nhau bằng tiền. Quá trình đánh bạc Vũ Văn T là người xóc cái cho các con bạc tham gia chơi. Trong khi các đối tượng đang tham gia đánh bạc chưa xác định được người thắng người thua thì tổ công tác của Công an huyện Phú Bình đến kiểm tra. Nguyễn Văn H (chủ nhà) phát hiện đã thông báo nên các đối tượng đã tự đập vỡ dụng cụ đánh bạc, cất giấu tiền và rời khỏi chiếu bạc ra sân, Vũ Văn T cùng một số đối tượng bỏ chạy trốn. Tổ công tác đã lập biên bản sự việc thu giữ tiền, một số tài sản và các đồ vật có liên quan đồng thời đưa các đối tượng về trụ sở làm việc.

Về hình thức đánh bạc như sau: Những người chơi chuẩn bị 04 quân vị được bôi đen một mặt, 01 chiếc bát, 01 chiếc đĩa. Trước khi đánh bạc những con bạc thống nhất chọn người xóc cái, những con bạc còn lại ngồi thành hai dãy (quy ước bên tay trái của người xóc cái là lẻ, bên tay phải là chẵn). Người xóc cái cho 04 quân vị vào chiếc đĩa rồi úp bát lên xóc, xong đặt bát đĩa xuống cho những con bạc đặt cược chẵn, lẻ. Khi người xóc cái mở bát ra nếu cả 4 quân vị đều đen hoặc đều trắng, hoặc có 2 quân đen, 2 quân trắng thì là chẵn, lúc này con bạc đặt cửa chẵn sẽ thắng. Ngược lại nếu khi người xóc cái mở bát ra mà có 1 quân vị đen và 3 quân vị trắng hoặc 1 quân vị trắng và 3 quân vị đen thì là lẽ, lúc này những con bạc đặt cửa lẻ sẽ thắng và bên thua phải trả tiền cho bên thắng theo số tiền mà các con bạc đã thống nhất đặt cược với nhau.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã chứng minh được các đối tượng Nguyễn Tiến T, Vũ Thị M, Trần Văn H, Nguyễn Văn H (sinh năm 1962), Nguyễn Văn H (sinh năm 1973), Phùng Xuân H, Nguyễn Thị H, Vũ Văn T và Ngô Văn T sử dụng số tiền vào việc đánh bạc là 16.885.000 đồng.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Vũ Văn T đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách vụ án hình sự, tạm đình chỉ điều tra và ra quyết định truy nã đối với Vũ Văn T. Đến ngày 29/5/2019 Vũ Văn T bị bắt, vụ án được phục hồi điều tra.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Văn T khai nhận: Khoảng 13h ngày 12/11/2019 Vũ Văn T cùng với vợ là Ngọ Thị T đang chơi ở thị trấn H, huyện Phú Bình thì nhận được điện thoại của Nguyễn Tiến T rủ đến nhà Nguyễn Văn H để đánh bạc, Vũ Văn T đồng ý. Khi đến nơi, Vũ Văn T thấy có nhiều người đang ngồi tập trung trong gian nhà bếp chuẩn bị đánh bạc nên Vũ Văn T đã chủ động xin xóc cái cho các con bạc khác đánh bạc. Trước khi đánh bạc Vũ Văn T có đem theo số tiền 1.200.000 đồng để sử dụng vào việc đánh bạc và đã bỏ ra số tiền 100.000 đồng là tiền phế. Vũ Văn T xóc cái cho các con bạc chơi được khoảng 40 phút thì phát hiện lực lượng công an đến nên Vũ Văn T đã bỏ chạy thoát. Quá trình đánh bạc Vũ Văn T đã bị thua số tiền 950.000 đồng, số tiền còn lại Vũ Văn T đã chi tiêu hết.

Lời khai nhận tội của Vũ Văn T phù hợp với lời khai của các đối tượng có liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra.

Như vậy tổng số tiền mà Vũ Văn T cùng các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 16.685.000 đồng + 1.200.000 đồng = 17.885.000 đồng.

Vật chứng của vụ án đã nhập kho vật chứng Công an huyện Phú Bình chờ xử lý gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu Angel 100 màu xanh, BKS: 98N1-8884; 01 mảnh giấy kẻ ô ly có ghi nhiều chữ số; 01 chiếc bút bi; 02 thanh tre.

Tại bản Cáo trạng số 120/CT-VKSPB ngày 02 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình đã truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình trình bầy lời luận tội và đề nghị với Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Vũ Văn T từ 6 đến 9 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 phạt bổ sung bị cáo Vũ Văn T từ 10 đến 15 triệu đồng nộp sung quỹ nhà nước.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm có: 02 (hai) thanh tre khô; 01 (một) chiếc bút bi mầu xanh đã qua sử dụng; 01 (một) tờ giấy kẻ ôli;

- Tạm giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Angel 100 màu xanh, BKS 98N1-8884, xe có một gương chiếu hậu bên trái, số máy: VMEVA2A – D375612, số khung RLGXA10CH5H375612, không kiểm tra các bộ phận bên trong máy và xăm lốp, xe cũ đã qua sử dụng, để đảm bảo cho việc thi hành án đối với bị cáo Vũ Văn T.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tình hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Bình; Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt quả tang và lời khai của người làm chứng, những người tham gia tố tụng khác cũng như các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 15h 30 phút ngày 12/11/2018 tại nhà Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 thuộc Xóm V, xã T, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên Vũ Văn T cùng các đối tượng khác gồm Nguyễn Tiến T, Phùng Xuân H, Vũ Thị M, Trần Văn H, Nguyễn Văn H1 (sinh năm 1962), Nguyễn Văn H (sinh năm 1973), Nguyễn Thị H, Ngô Văn T2 thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa sát phạt nhau bằng tiền Việt Nam đồng. Sau đó, đã bị Tổ công tác của Công an huyện Phú Bình bắt quả tang, còn Vũ Văn T bỏ trốn và đến ngày 29/5/2019 thì bị bắt theo lệnh truy nã. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã chứng minh được số tiền mà Vũ Văn T cùng các đối tượng khác sử sụng vào việc đánh bạc là 17.885.000 đồng.

Hành vi đó của bị cáoVũ Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015. Còn đối với các đối tượng Nguyễn Tiến T, Phùng Xuân H, Vũ Thị M, Trần Văn H, Nguyễn Văn H1 (sinh năm 1962), Nguyễn Văn H (sinh năm 1973), Nguyễn Thị H, Ngô Văn T2 đã bị xét xử tại Bản án số 36/2019/HSST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

Nội dung Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2.…

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc”. Khung hình phạt mà bị cáo phải chịu trách nhiệm thuộc trường hợp là tội phạm ít nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức rõ việc đánh bạc trái phép là gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự của địa phương, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, do vậy cần phải xử lý nghiêm minh bị cáo bằng pháp luật hình sự.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đều đã thành khẩn khai báo về hành vi thực hiện tội phạm của mình và tỏ ra ăn năn hối cải. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Từ những căn cứ nêu trên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc một mức án phù hợp với nhân thân, tính chất mức độ tội phạm do bị cáo gây ra và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội.

[4]. Quyết định tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Ra Quyết định tạm giam Vũ Văn T với thời hạn là 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét hành vi phạm tội của bị cáo nhằm mục đích thu lời bất chính, do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo với mức tiền phạt là 10.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước, theo khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

[6]. Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xử lý vật chứng như sau:

- Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm có: 02 (hai) thanh tre khô; 01 (một) chiếc bút bi mầu xanh đã qua sử dụng; 01 (một) tờ giấy kẻ ôli;

- Tạm giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Angel 100 màu xanh, BKS 98N1-8884, xe có một gương chiếu hậu bên trái, số máy: VMEVA2A-D375612, số khung RLGXA10CH5H375612, không kiểm tra các bộ phận bên trong máy và xăm lốp, xe cũ đã qua sử dụng, để đảm bảo cho việc thi hành án đối với bị cáo Vũ Văn T, vì không liên quan đến tội phạm (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra của Công an huyện Phú Bình và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Bình).

[7]. Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội đối với bị cáo như đề nghị về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp cải tạo là phù hợp với quy định của Pháp luật, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ, áp dụng pháp luật:

- Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

2. Hình phạt chính: Xử phạt Vũ Văn T 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2019.

3. Quyết định tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Ra Quyết định tạm giam Vũ Văn T với thời hạn là 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

4. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền Vũ Văn T 10.000.000đ (Mười triệu đồng), nộp sung quỹ Nhà nước.

5. Xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm có: 02 (hai) thanh tre khô; 01 (một) chiếc bút bi mầu xanh đã qua sử dụng; 01 (một) tờ giấy kẻ ôli;

- Tạm giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Angel 100 màu xanh đen, BKS 98N1-8884, xe có một gương chiếu hậu bên trái, số máy: VMEVA2A-D375612, số khung RLGXA10CH5H375612, không kiểm tra các bộ phận bên trong máy và xăm lốp, xe cũ đã qua sử dụng, để đảm bảo cho việc thi hành án đối với bị cáo Vũ Văn T, vì không liên quan đến tội phạm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra của Công an huyện Phú Bình và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Bình).

6. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước.

7. Thông báo quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo Vũ Văn T. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:121/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về