Bản án 121/2018/HNGĐ-ST ngày 23/08/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 121/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 8 năm 2018, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số156/2018/TLST-HNGĐ ngày 08-02-2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 277/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 28-6-2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 245/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26-7-2018 giữacác đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Trúc C, sinh năm: 1978

Địa chỉ: C7/252 ấp 3, xã B, huyện T, Thành phố Hồ Chí Minh. (chị C cóđơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Huỳnh Triệu P1, sinh năm: 1978

Địa chỉ: C7/252 ấp 3, xã B, huyện T, Thành phố Hồ Chí Minh. (anh P1vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 23-01-2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Trúc C trình bày:

Chị và anh Huỳnh Triệu P1 bắt đầu chung sống từ năm 2004, do tự tìm hiểu, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh vào ngày 03-11-2004. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, anh P bỏ bê gia đình, không chăm lo làm ăn, ít quan tâm đến con cái. Vì vậy từ năm 2007 cho đến nay chị và anh P1 sống ly thân. Mặc dù, sau đó chị đã liên lạc với bạn bè, người thân nhưng vẫn không tìm được anh P1.

Vào ngày 07-11-2017 Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tuyên bố anh P1 mất tích. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P1.

Về con chung, chị và anh P chung sống có một con chung tên Huỳnh Triệu P2, sinh ngày 01-9-2005. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh P1 cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung, chị xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giảiquyết.

Về nợ chung, chị xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng anh Huỳnh Triệu P1 vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến của mình bằng bất cứ văn bản nào.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh luận của các bên đương sự thì xét thấy thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

 [2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Trúc C khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Huỳnh Triệu P1. Anh P1 có nơi cư trú cuối cùng là tại huyện Bình Chánh. Như vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

 [3] Về sự vắng mặt của các đương sự: Do nguyên đơn chị Nguyễn Thị Trúc C có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về sự vắng mặt của bị đơn, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cho anh P1 nhưng anh P1 vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Phước theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

 [4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 118, Quyển số 01 đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 03-11-2004 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị C và anh P1 là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9, Điều 11 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

 [5] Trong quá trình giải quyết vụ án, chị C xác định giữa chị và anh P1 phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, trong quá trình chung sống anh P1 ít có sự quan tâm đến gia đình, dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ năm 2007 cho đến nay. Đồng thời, anh Phước đã mất tích từ năm 2007 cho đến nay, nên chị C yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với anh P1. Hội đồng xét xử xét thấy, vào ngày 07-11- 2017 Tòa án nhân dân huyện đã tuyên bố anh Huỳnh Triệu P1 là người mấttích. Như vậy, mục đích của hôn nhân giữa chị C và anh P1 đã không đạt được,do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của chị C đối với anh P1 là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [6] Về con chung: Chị C xác nhận giữa chị và anh P1 có một con chung tên Huỳnh Triệu P2, sinh ngày 01-9-2005, hiện trẻ P2 đang sống với chị C, tình hình nuôi dưỡng tốt, đảm bảo điều kiện phát triển về thể chất, khả năng nhận thức của trẻ. Đồng thời, tại biên bản ghi nhận ý kiến của trẻ P2 thì trẻ có

nguyện vọng được sống cùng chị C. Còn anh P1 vắng mặt, không thể hiện ý kiến, yêu cầu của anh về con chung giữa anh và chị C. Do đó, Hội đồng xét xử cần giao một con chung tên Huỳnh Triệu P2, sinh ngày 01-9-2005 cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp; việc chị C không yêu cầu anh P1 cấp dưỡng nuôi con cùng chị là sự tự nguyện của chị C nên Hội đồng xét xử xét tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh P1.

 [7] Về tài sản chung: Chị C xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh P1 vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của anh về tài sản chung giữa anh và chị C. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề tài sản chung theo yêu cầu của chị C, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

 [8] Về nợ chung: Chị C xác nhận không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh P1 vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của anh về nợ giữa anh và chị C. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề nợ chung theo yêu cầu của chị C, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

 [9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn chị Nguyễn Thị Trúc C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

 [10] Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung thì đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1Điều 40, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 11 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 51, Điều 56, Điều 69, Điều 71, Điều81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

 1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn ThịTrúc C đối với bị đơn anh Huỳnh Triệu P1 về việc tranh chấp ly hôn.

1.1 Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Trúc C được ly hôn với anh Huỳnh Triệu P1. Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Trúc C và anh Huỳnh Triệu P1 chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 118, Quyển số 01 đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 03-11-2004 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2 Về con chung: Giao một con chung tên Huỳnh Triệu P2, sinh ngày 01-9-2005 cho chị Nguyễn Thị Trúc C tiếp tục nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh Huỳnh Triệu P1.

Anh Huỳnh Triệu P1 có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1.3 Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Trúc C xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

1.4 Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Trúc C xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Trúc C phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà chị C đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0031458 ngày 05-02-2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Chị C đã nộp đầy đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Trúc C và anh Huỳnh Triệu P1 vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2018/HNGĐ-ST ngày 23/08/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:121/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về