Bản án 120/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 120/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

xNgày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 120/2019/TLST-HS ngày 23/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2019/QĐXXST-HS ngày 29/8/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến D, sinh năm 1988 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ dân phố Q, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 30/10/2017 Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 13 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/7/2018; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 20/10/2013 Công an phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Trộm cắp tài sản”, ngày 27/03/2014 Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị bắt, tạm giữ ngày 25/6/2019; tạm giam từ ngày 03/7/2019 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Chị Đào Thị Bích N, sinh năm 1980; trú tại: Thôn K (nay là K Đ), xã T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Công T, sinh năm 1987; trú tại: Số 152, phố T, phường M, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; trú tại: Tổ dân phố Q, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Hồ Ngọc M, sinh năm 1989; trú tại: Số 28, ngõ 176, phường Đ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tiến D là đối tượng có 01 tiền án về ti: “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Khoảng 17 giờ ngày 16/05/2019, D bắt xe buýt trên Quốc lộ 1A gần Ga Phủ Lý đi theo hướng Hà Nội, khi xe đi đến khu vực thôn KĐ, xã T, thành phố Phủ Lý thì D xuống xe, đi bộ vào trong làng với mục đích đến nhà ông Nguyễn Văn Q (tên khác là L), sinh năm 1954 để chơi. Khi đến nhà ông Q thấy cửa khóa nên D đi tiếp một đoạn thì đến trước nhà chị Đào Thị Bích N, thấy ngôi nhà có 03 tầng, sơn màu xanh, đoán trong nhà sẽ có nhiều tài sản nên D nảy sinh ý định đột nhập vào nhà chị N để trộm cắp tài sản. Quan sát thấy cổng chính nhà chị N khóa, hệ thống tường bao kiên cố khó trèo qua và phát hiện nhà ông Tạ Văn C liền kề sát ngay nhà chị N không có ai ở nhà, D liền trèo qua cây nhãn trước tường bao phía nam nhà ông C rồi đi đến vị trí khe hở giữa hai nhà, D bám vào tường bao trèo lên quan sát thấy nhà chị N đang có người bên trong nên nấp lại ở khe hở. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, lợi dụng gia đình chị N tập trung ở phòng khách ăn cơm, D trèo từ tường bao lên nóc lán lợp mái tôn nhà chị N rồi trèo lên ban công tầng 2 ngôi nhà vào trong phòng ngủ, D nhìn thấy trên giường ngủ có để chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng và 01 chiếc máy tính bảng Ipad Ari 2 ở bên cạnh nên cầm chiếc điện thoại bỏ vào túi quần bên phải và lấy chiếc máy tính bảng giấu vào bên trong cạp quần. Sau khi lấy được tài sản của gia đình chị N, D theo đường cũ thoát ra bên ngoài. Ngày 18/05/2019, D mang chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus đến cửa hàng sửa chữa điện thoại ở số 152, phố M, phường T, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội của anh Nguyễn Công T để mở khóa và bán chiếc điện thoại được 3.000.000 đồng sử dụng tiêu sài cá nhân. Ngày 31/05/2019 D đem tiếp chiếc máy tính bảng Ipad Ari 2 đến cửa hàng trên để mở khóa bảo mật và gửi lại chiếc máy tính bảng ở đó. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 24/6/2019 chị Đào Thị Bích N đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam trình báo sự việc.

Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S6 Edge màu vàng, bên trong lắp SIM số 0916097188 thu giữ của Nguyễn Tiến D.

- 01 vỏ hộp chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus và 01 vỏ hộp máy tính bảng Ipad Ari 2 do chị Đào Thị Bích N giao nộp.

- 01 máy tính bảng Ipad Ari 2 16gb màu vàng (gold) đã cũ có gắn phiếu kiểm tra thông tin thiết bị sửa chữa tại cửa hàng do anh Nguyễn Công T tự nguyện giao nộp.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 07/KL-ĐGTS ngày 28/6/2019, Hội đồng định giá tài sản tỉnh Hà Nam kết luận:“Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus 32gb màu vàng (gold) sản xuất năm 2017, loại máy đã cũ, đã qua sử dụng, số IMEI: 353808088065759, tại thời điểm tháng 05/2019 giá trị tài sản còn 7.600.000 đồng; một máy tính bảng Ipad Ari 2 16gb màu Gold sản xuất năm 2014, số IMEI: 3544240637993602 loại máy cũ, đã qua sử dụng, tại thời điểm tháng 05/2019 giá trị tài sản 2.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 9.600.000 đồng.

Bản cáo trạng số 124/CT-VKSPL ngày 22/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Tiến D về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Tiến D, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Nguyễn Tiến D từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Phạt tiền bị cáo từ 01 đến 03 triệu đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tiến D đã khai toàn bộ hành vi như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tiến D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp chứng cứ khác của vụ án như biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biên bản nhận dạng; giao nhận đồ vật, tài liệu; bản ảnh, sơ đồ, khám nghiệm hiện trường; kết luận định giá tài sản; đơn trình báo và lời khai của bị hại; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng; lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 16/05/2019, tại thôn KĐ, xã T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, lợi dụng đêm tối và sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của người khác, Nguyễn Tiến D đã đột nhập vào tầng 2 nhà ở của chị Đào Thị Bích N, lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus và 01 chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Ipad Ari 2 với tổng giá trị tài sản là 9.600.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” (chưa được xóa án tích), bản thân đã từng bị kết án và xử phạt vi phạm hành chính về tội, hành vi: “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích và hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội khi có 01 tiền án về tội: “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã ủy quyền, tác động đến gia đình thực hiện việc bồi thường thiệt hại tài sản gây ra cho bị hại nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo còn thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật ở chỗ bản thân là người đã nhiều lần bị kết án phạt tù về tội: “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh, tu dưỡng bản thân mà sau khi chấp hành xong hình phạt tù vẫn tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo không những gây hậu quả thiệt hại về tài sản cho người khác mà còn gây mất trật tự, trị an khu dân cư, tạo nên tâm lý lo ngại, bức xúc trong nhân dân. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có đủ tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Đối với hành vi của Nguyễn Công T, chủ cửa hàng sửa chữa điện thoại di động số 152, phố M, phường T, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội đã mua lại chiếc điện thoại Iphone 7 Plus và mở khóa bảo mật chiếc máy tính bảng Ipad, do anh T không biết đó là những tài sản do phạm tội mà có, đã tự nguyện giao nộp lại tài sản này cho Cơ quan điều tra để xử lý nên hành vi đó không cấu thành tội phạm, Cơ quan điều tra không xử lý về mặt hình sự đối với Nguyễn Công T là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không thu hồi lại được chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus để trả cho bị hại. Bị cáo đã có đơn tự nguyện xin ủy quyền cho bà Nguyễn Thị H (mẹ đẻ) đại diện, thay bị cáo bồi thường thiệt hại về tài sản đã gây ra cho bị hại với số tiền là 9.000.000 đồng, chị N đã nhận tiền và không có đề nghị gì thêm về việc bồi thường. Vì vậy, trách nhiệm dân sự trong vụ án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với 01 máy tính bảng nhãn hiệu Ipad Ari 2 cùng vỏ hộp của máy; 01 vỏ hộp điện thoại di động Iphone 7, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của chị Đào Thị Bích N nên nay trả lại những tài sản này cho chị N.

+ Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S6 Edge màu vàng, bên trong lắp SIM số 0916097188, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án nay trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến D phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25/6/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tiến D 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S6 Edge màu vàng, số IMEI: 35952306079735202, bên trong lắp SIM số 0916097188, máy đã qua sử dụng, nứt vỡ.

- Trả lại cho chị Đào Thị Bích N 01 (một) chiếc máy tính bảng Ipad Ari 2 màu vàng (gold), máy đã qua sử dụng, số IMEI: 354424063793602; 01 (một) vỏ hộp điện thoại di động Iphone 7 Plus năm sản xuất 2017, trên vỏ hộp ghi 32GB và số IMEI: 253808088065759; 01 (một) vỏ hộp máy tính bảng Ipad Ari 2, trên vỏ hộp ghi 16GB và số IMEI: 354424063793602.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 27/8/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Tiến D nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:120/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về