Bản án 120/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 120/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 218/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 98/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Chị Trần Thị N; đăng ký thường trú: Thôn 4, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn 15, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

Bị đơn: Anh Đinh Hữu P; địa chỉ: Thôn 4, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Trần Thị N là nguyên đơn khởi kiện với nội dung chị và anh Đinh Hữu P quen biết, phát sinh tình cảm và đi đến hôn nhân tự nguyện. Chị và anh P đã đăng ký kết hôn ngày 09/5/2013 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau lễ cưới, chị và anh P về chung sống tại Thôn 4, xã P, huyện T. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và làm ăn kinh tế. Vợ chồng thường xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Gia đình và bạn bè đã hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án cho chị ly hôn với anh P. Con chung giữa chị và anh P là Đinh Hữu H sinh ngày 12 tháng 4 năm 2014. Hiện nay, con chung đang được anh P trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị đề nghị để anh P trực tiếp nuôi con. Về cấp dưỡng cho con, chị đề nghị để chị và anh P tự thỏa thuận giao nhận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị và anh P không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì lý do bận công việc, chị có đơn xin xét xử vắng mặt.

Anh Đinh Hữu P là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác song đến ngày mở phiên tòa, anh P vẫn không có văn bản trình bày ý kiến về việc chị Trần Thị N xin ly hôn đồng thời vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về người nuôi dưỡng con chung, đề nghị xem xét giao cháu Đinh Hữu H cho anh Đinh Hữu P trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt của nguyên đơn và bị đơn tại phiên tòa Nguyên đơn là chị Trần Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Đinh Hữu P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh P vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Trần Thị N ly hôn anh Đinh Hữu P Chị N và anh P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận đăng ký kết hôn. Do đó, kết hôn giữa chị N và anh P là hợp pháp. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hòa giải được, từ năm 2016 chị N và anh P đã sống ly thân cho đến nay. Chị N xin ly hôn, Tòa án đã triệu tập anh P nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị N xin ly hôn nhưng anh P đều vắng mặt không có lý do, qua đó thể hiện anh P không quan tâm đến việc hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Điều này chứng minh mâu thuẫn giữa chị N và anh P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện cúa chị N xin ly hôn anh P.

[3] Về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡmg cho con Chị N và anh P có 01 con chung tên Đinh Hữu H sinh ngày 12 tháng 4 năm 2014. Khi ly hôn, chị N đề nghị để anh P được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, từ khi sống ly thân đến nay, anh P là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và đảm bảo con chung phát triển bình thường. Vì vậy, giao con chung cho anh P được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị N đề nghị để chị và anh P tự thỏa thuận giao nhận, không yêu cầu tòa án giải quyết. Xét đề nghị của chị N là tự nguyện, quyền lợi của con chung vẫn được đảm bảo, anh P không có ý kiến về việc cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không buộc chị N phải cấp dưỡng cho con.

[4] Về tài sản chung, chị Trần Thị N khai chị và anh Đinh Hữu P không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản. Anh P không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí, chị Trần Thị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

- Cho chị Trần Thị N được ly hôn anh Đinh Hữu P.

- Giao cho anh Đinh Hữu P trực tiếp nuôi dưỡng con là Đinh Hữu H sinh ngày 12 tháng 4 năm 2014 đến khi con thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Trần Thị N phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0000478 ngày 26/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Trần Thị N đã nộp đủ án phí.

- Chị Trần Thị N và anh Đinh Hữu P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 . 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:120/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về