Bán án 119/2021/HNGĐ-ST ngày 26/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 119/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 238/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo số: 171/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 202/2021/QĐST – HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thùy L, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Số 168/4D, tổ 1, khóm T, phường H, thành phố L, An Giang.

(Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1989. Vắng mặt Địa chỉ: Số 534, đường V, phường X, thành phố L, An Giang.

Chỗ ở hiện nay: Số 17L1, khóm T, phường H, thành phố L, An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/7/2020 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thùy L trình bày:

Năm 2014, bà và ông Nguyễn Thanh H quen biết, tìm hiểu và tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L theo Giấy chứng nhận kết hôn cấp ngày 25/11/2014, đây là hôn nhân lần thứ nhất của bà và ông H. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường xảy ra cự cãi và đã nhiều lần hàn gắn để lo cho con nhưng không có kết quả. Do đó, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông H. Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng Thanh D, sinh ngày 13/12/2014 và Nguyễn Hoàng Kim N, sinh ngày 20/3/2018, các con đang được bà L chăm sóc, nuôi dưỡng nên yêu cầu tiếp tục nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 20/4/2021, bị đơn Nguyễn Thanh H trình bày:

Ông H thống nhất với bà L về thời gian quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sau khi kết hôn, ông và bà L sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nên bà L yêu cầu ly hôn thì ông H không đồng ý, yêu cầu được hàn gắn hôn nhân để lo cho các con. Về con chung: Thống nhất với bà Linh có 02 con chung, hiện bà L đang nuôi dưỡng, ông đồng ý để bà L nuôi con, ông không cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn vắng mặt lần thứ hai, không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ ý kiến của các đương sự tại bản tự khai, Tòa án nhận định:

Về thủ tục tố tụng [1] Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn đăng ký thường trú tại thành phố L nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt lần thứ hai, không lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Về nội dung tranh chấp [1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ bản trích lục kết hôn số 79/2014 ngày 25/11/2014 của Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, thể hiện giữa nguyên đơn, bị đơn tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, quá trình chung sống, nguyên đơn cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong cuộc sống vợ chồng nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng bị đơn không đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Xét thấy, trong quan hệ hôn nhân vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, tin tưởng nhau và chia sẻ những khó khăn để vượt qua thử thách, đây là cơ sở vững chắc để bồi đắp cho hôn nhân, cho gia đình hạnh phúc. Giữa nguyên đơn, bị đơn đã có thời gian quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân xuất phát từ tình cảm yêu thương nhưng khi đã thành vợ chồng thì cả hai không xây dựng gia đình hạnh phúc , không tin tưởng nhau trong đời sống vợ chồng. Quá trình chuẩn bị xét xử, bị đơn yêu cầu được hàn gắn nhưng nguyên đơn không đồng ý nên bị đơn hai lần vắng mặt tại phiên tòa, điều này thể hiện bị đơn không có thiện chí hàn gắn quan hệ hôn nhân với nguyên đơn. Mặt khác, xét về tình nghĩa vợ chồng thì cả hai không chung sống nên không còn nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ và thực hiện các công việc trong gia đình, điều này thể hiện tình cảm vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn là có căn cứ, phù hợp với Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 19, Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

[2] Về con chung: Nguyên đơn, bị đơn có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng Thanh D, sinh ngày 13/12/2014 và Nguyễn Hoàng Kim N, sinh ngày 20/3/2018, hiện nguyên đơn đang chăm sóc, nuôi dưỡng và bị đơn cũng đồng ý để nguyên đơn tiếp tục nuôi con. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc học hành con cũng như xem xét điều kiện, hoàn cảnh của nguyên đơn và nguyện vọng của con chung theo biên bản lấy lời khai ngày 20/4/2021, Hội đồng xét xử chấp nhận giao quyền cho nguyên đơn được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Nguyên đơn cùng các thành viên gia đình không được cản trở bị đơn trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Nguyên đơn và bị đơn có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định tại Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về cấp dưỡng: Bị đơn không phải cấp dưỡng nuôi con, do bị đơn không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không có [5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 19; Điều 51; Điều 56, Điều 57; Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thùy L được ly hôn với ông Nguyễn Thanh H. Quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông H chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung: Bà Lê Thùy L được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung tên Nguyễn Hoàng Thanh D, sinh ngày 13/12/2014 và Nguyễn Hoàng Kim N, sinh ngày 20/3/2018.

Bà L cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Ông H và bà L có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định pháp luật.

[3] Về cấp dưỡng: Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con, do bà L không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm Nguyên đơn Lê Thùy L phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002106 ngày 30/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Nguyên đơn đã thực hiện xong.

[6] Về quyền kháng cáo Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

(Giải thích điều 26 Luật Thi hành án dân sự) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bán án 119/2021/HNGĐ-ST ngày 26/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:119/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về