Bản án 119/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C P, TỈNH QN

BẢN ÁN 119/2019/HS-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố C P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 110/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: T T K O; Tên gọi khác: không. Sinh ngày: 13/7/1984 tại thành phố C P, tỉnh Q N.

Nơi ĐKHKTT: 19/66 đường N H Q, phường T L, quận H B, thành phố H P. Chỗ ở: Tổ 3, khu H 1, phường C B, thành phố C P, tỉnh Q N.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Con ông: T N T; Con bà V T Q; Chồng: N N T; Có 01 con nhỏ sinh năm 2009;

Tiền án: Ngày 26/12/2016 Tòa án nhân dân thành phố C P xử phạt 15 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 29/9/2017 chấp hành xong hình phạt tù của bản án; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 02/6/2019; Hiện tạm giam - Có mặt.

- Người làm chứng: Anh L Đ C, chị L T H, anh T V A, anh V V H; Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 17giờ 15 phút ngày 02 tháng 6 năm 2019 tại Nhà nghỉ Mai Anh thuộc tổ 5, khu 6C, phường C T, thành phố C P, Công an thành phố CP bắt quả tang T T K O bán trái phép chất ma túy cho L Đ C; Thu giữ của O: 01 ví giả da màu nâu bên trong có 01 đoạn ống hút nhựa mầu hồng dài 3,5cm được hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo và số tiền 1.548.000 đồng. Thu của C: 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh được hàn kín hai đầu dài 2,2cm chứa tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và số tiền 100.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số: 448/GĐMT ngày 05/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q N kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong đoạn ống hút nhựa màu hồng được hàn kín hai đầu thu giữ của T T K O và chất tinh thể màu trắng trong đoạn ống hút nhựa màu xanh được hàn kín hai đầu thu giữ của L Đ C đều là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,286 gam và 0,056 gam.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo T T K O khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2016; Khoảng 20 giờ ngày 01/6/2019, bị cáo gọi điện cho N T hỏi mua 500.000đ ma túy, N đồng ý và hẹn bị cáo đến khu vực dốc Tý còng thuộc phường C T, thành phố C P, tại đây bị cáo đưa cho N 500.000đ được N đưa cho 01 đoạn ống nhựa màu hồng dán kín hai đầu trong chứa ma túy đá, bị cáo đem về nhà chia số ma túy mua được của N vào 03 đoạn ống hút nhựa (gồm 02 đoạn ống màu xanh và 01 đoạn ống màu hồng) rồi hàn kín hai đầu của ống nhựa, bị cáo cất tất cả ống nhựa vào ví da của bị cáo mục đích để bán.

Hồi 13 giờ ngày 02/6/2019, L T H điện thoại cho bị cáo hỏi mua 300.000đ ma túy đá, bị cáo hẹn H đến nhà nghỉ Mai Anh để giao dịch. Tại đây, C đưa cho bị cáo 300.000 đồng, bị cáo nhận tiền và lấy trong ví giả da màu nâu 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh hàn kín hai đầu có chứa ma túy đá đưa cho C. Sau đó C và H đi đâu không rõ.

Đến 17 giờ cùng ngày, C điện thoại cho bị cáo hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, bị cáo tiếp tục hẹn C đến nhà nghỉ Mai Anh để giao dịch. Một lúc sau C đến, tại quầy lễ tân tầng 1 nhà nghỉ Mai Anh C đưa cho bị cáo 400.000 đồng, bị cáo nhận tiền và đưa cho C 01 đoạn ống nhựa màu xanh hàn kín hai đầu chứa ma túy đá và 100.000đ thì bị Công an bắt quả tang. Bị cáo bị thu giữ 01 ví giả da bên trong có 01 đoạn ống hút nhựa mầu hồng được hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, số tiền 1.548.000 đồng. C bị thu gồm: 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh được hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và số tiền 100.000 đồng.

Người làm chứng anh L Đ C và chị L T H đều khai: Cả hai người là bạn xã hội; Hồi 13 giờ ngày 02/6/2019 H và C rủ nhau mỗi người góp 150.000đ để mua ma túy sử dụng, C là người cầm tiền, còn H gọi điện thoại cho O hỏi mua 300.000đ ma túy đá rồi cả hai đi đến nhà nghỉ Mai Anh, đến nơi H ra hiệu cho C đưa 300.000đ cho O, O nhận tiền và đưa cho C 01 đoạn ống hút nhựa được hàn kín hai đầu trong có chứa ma túy đá, mua được ma túy C và H đi về đến Bến Do phường C T thì C đưa ma túy cho H nói đi có việc rồi bảo H đưa số điện thoại của O lưu vào điện thoại.

L Đ C còn khai thêm: Đến 17 giờ 15 phút ngày 02/6/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên C gọi điện thoại hỏi O mua 300.000đ ma túy đá, O đồng ý và hẹn đến nhà nghỉ Mai Anh để giao dịch mua bán ma túy, C đi xe ôm của người không quen biết đến nhà nghỉ rồi bảo người lái xe chờ, C đi vào thấy O đứng ở quầy lễ tân tầng 1 nhà nghỉ Mai Anh, C đưa O 400.000đ, O nhận tiền và đi vào gian bếp còn chiến đi theo sau, khi quay ra O đưa C 01 đoạn ống hút nhựa được hàn kín hai đầu màu xanh trong chứa chất ma túy đá và tờ tiền 100.000đ, C nhận ma túy và cầm tiền O trả lại thì bị phát hiện.

Người làm chứng anh T A V khai: Hồi 17 giờ 15 phút ngày 02/6/2019 Tại nhà nghỉ Mai Anh thuộc tổ 5, khu 6C, phường C T, thành phố C P anh được chứng kiến Công an đang bắt giữ T T K O là nhân viên của nhà nghỉ và 01 thanh niên khai tên C, Công an thu trên tay C 01 đoạn ống hút nhựa được hàn kín 02 đầu màu xanh, trong có chứa chất tinh thể màu trắng, C khai là ma túy mua của O giá 300.000đ; Công an thu của C 100.000đ và 01 điện thoại Nokia.

Anh V V H khai: Vào 17 giờ ngày 02/6/2019 khi đang chờ khách đi xe ôm ở khu vực cổng phụ Bệnh viện đa khoa thành phố C P có 01 thanh niên thuê tôi chở xuống nhà Nghỉ Mai Anh, đến nơi tôi đứng ngoài đợi còn C đi vào nhà nghỉ gặp và đưa tiền cho 01 phụ nữ rồi người này đi vào bên trong thì C đi theo, khi họ quay ra thì bị Công an kiểm tra, thu trên tay C 01 đoạn ống hút nhựa được hàn kín 2 đầu màu xanh trong có chất tinh thể trắng, chiến khai là ma túy đá và 100.000đ; 01 điện thoại Nokia; Thu của O: 1.548.000đ trong đó có tiền bán ma túy cho chiến, 01 điện thoại Oppo; O còn tự lấy ra 01 ví giả da trong có 01 đoạn ống hút nhựa màu hồng bên trong có chất tinh thể trắng, O khai là ma túy đá.

Bản Cáo trạng số: 111/CT-VKSCP ngày 20/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C P truy tố bị cáo T T K O về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C P giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử phạt: T T K O mức phạt từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 02/6/2019.

Không phạt bổ sung đối với bị cáo;

Áp dụng điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a,b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 600.000đ do phạm tội mà có sung ngân sách nhà nước; Số tiền còn lại thu của bị cáo do không liên quan đến việc phạm pháp nên trả lại cho bị cáo; Tịch thu tiêu hủy 0,22g ma túy loại Methamphetamine do cơ quan giám định hoàn lại được niêm phong trong phong bì số 448/GĐMT và 01 ví giả da; Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo thu của bị cáo do có liên quan dến việc phạm pháp.

Tại phiên tòa bị cáo T T K O khai nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Thị Kiều Oanh khai nhận: Hồi 13 giờ ngày 02/6/2019 tại nhà nghỉ Mai Anh thuộc tổ 5, khu 6c, phường C T, thành phố C P; bị cáo có hành vi bán ma túy cho L T H và L Đ C 01 liều ma túy được đựng trong 01 đoạn ống nhựa với giá 300.000đồng. Đến 17 giờ 15 phút cùng ngày bị cáo tiếp tục bán cho L Đ C 0,056g matúy loại Methamphetamine với giá 300.000đồng thì bị phát hiện bắt giữ; Ngoài ra bị cáo còn tàng trữ 0,286 g ma túy loại Methamphetamin mục đích để bán.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai người làm chứng anh L Đ C, chị L T H, anh T V A, anh V V H, phù hợp với bản Kết luận giám định số: 448/GĐMT ngày 05/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q N, biên bản phạm tội quả tang lập hồi 17h25 phút ngày 02/6/2019, biên bản niêm phong vật chứng và nhiều tài liệu chứng cứ khác.

Như vậy: Qua các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa có đủ căn cứ kết luận: Hồi 13 giờ ngày 02/6/2019 tại nhà nghỉ Mai Anh thuộc tổ 5, khu 6c, phường C T, thành phố C P; T T K O có hành vi bán trái phép chất ma túy cho L T H và L Đ C với giá 300.000đồng. Tiếp đến, khoảng 17 giờ 15 phút cùng ngày TT K O tiếp tục bán cho L Đ C 0,056g ma túy loại Methamphetamine với giá 300.000đồng, khi C đưa O số tiền 400.000đồng, O lấy ma túy và 100.000đ trả lại cho C thì bị công an phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra TTKO còn tàng trữ 0,286g ma túy loại Methamphetamin với mục đích để bán.

Vậy nên việc truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng số: 111/CT-VKS-CP ngày 20/8/2019 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người đúng tội, với các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức hình phạt do Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo T T K O là phù hợp theo quy định của pháp luật hình sự.

Hành vi của bị cáo T T K O thực hiện là nguy hiểm cho xã hội và xâm hại đến trật tự quản lý nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo T TK O là người có hiểu biết về pháp luật và tác hại của ma túy song do nghiện chất ma túy nên bị cáo đã bán ma túy để kiếm lời tiếp tục mua ma túy sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Ngoài ra bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi có nhân thân xấu, năm 2016 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố C P xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, song bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân nay chưa được xóa án bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên cần xử lý nghiêm.

Song cũng cần xét: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận thành khẩn hành vi phạm tội của mình, ngoài ra bị cáo còn là con của người có công với cách mạng nên xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Vật chứng vụ án: Đối với số tiền 1.548.000đồng thu giữ của bị cáo, trong đó có 600.000đồng là tiền do bị cáo phạm pháp mà có nay tịch thu sung Ngân sách Nhà nước, số còn lại 948.000đồng là tiền của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 điện thoại OPPO thu của bị cáo do có liên quan đến việc phạm pháp nên tịch thu phát mại sung Ngân sách Nhà Nước.

Số ma túy gồm 0,22g ma túy, loại Methamphetamine do cơ quan giám định hoàn lại được niêm phong trong phong bì số 448/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, đây là vật cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với chiếc ví giả da thu giữ của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo có quan điểm do đã cũ hỏng, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Quá trình điều tra bị cáo khai Ninh là người bán ma túy cho bị cáo, song Trần Hải Ninh vắng mặt tại địa phương nên chưa có cơ sở để điều tra làm rõ.

Đối với L Đ C và L T H đã bị xử phạt hành chính nên không đề cập.

Số tiền 100.000đồng và 01 Điện thoại Nokia thu giữ của L Đ C, quá trình điều tra đã trả lại C nên không đề cập xử lý.

[6] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định.

Từ các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b Khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1,2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo T T K O phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy’’.

Xử phạt: T T K O 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 02/6/2019.

Căn cứ: Điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,b,c khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên:

Buộc bị cáo T T K O phải nộp lại số tiền 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) do phạm tội mà có sung ngân sách nhà nước;

Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, vỏ màu vàng, máy xước nhiều, kèm 01 sim, 01 pin, điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng;

Tịch thu tiêu hủy 0,22g matúy, loại Methamphetamine do cơ quan giám định hoàn lại được niêm phong trong phong bì số: 448/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng;

Trả lại bị cáo T T K O số tiền còn lại 948.000đ (Chín trăm bốn mươi tám nghìn đồng). Vật chứng được thi hành theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 138/BB-THA ngày 12/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C P.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo T T K O phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:119/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về