Bản án 119/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 119/2019/HS-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 115/2019/TLST-HS ngày 07/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2019/QĐXXST-HS ngày 28/8/2019 đối với bị cáo:

Trần Bá T (tên khác là Bùi Xuân T), sinh năm 1985 tại Hà Nam; Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Tổ D, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân X (đã chết) và bà Lại Thị H (đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 21/7/2010 Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 03/11/2011 Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 39 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 14/01/2016 Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/03/2018; tiền sự: Ngày 19/12/2018, Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”; nhân thân: Ngày 16/6/1999 Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam quyết định đưa vào trường giáo dưỡng thời gian 24 tháng, ngày 10/03/2003 Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 10/04/2003 Tòa án nhân dân thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 22/05/2003 Tòa án nhân dân thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 24/7/2003 Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 3 xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 09/02/2007 Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt hành chính phạt tiền 200.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”, ngày 21/03/2007 Chủ tịch UBND thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh thời gian 24 tháng, ngày 12/01/2010 Công an phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt hành chính phạt tiền 150.000 đồng về hành vi: “Trộm cắp tài sản”, ngày 26/02/2015 Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt hành chính phạt tiền 1.750.000 đồng về hành vi: “Xâm hại sức khỏe thành viên trong gia đình”; bị bắt, tạm giữ ngày 24/05/2019, tạm giam từ ngày 02/6/2019 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1966; trú tại: Tổ dân phố M, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Vũ Trọng H, sinh năm 1981; trú tại: Tổ C, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1978; trú tại: Tổ 2, phường Đ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

3. Bà Phạm Thị M, sinh năm 1948; trú tại: Tổ 6, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Hoàng Văn B, sinh năm 1973; trú tại: Tổ dân phố M, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Bá T (tên khác Bùi Xuân T) là đối tượng có 03 tiền án về tội: “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 24/05/2019, Vũ Trọng H điều khiển xe môtô BKS: 90B1-351.91 chở Trần Bá T đi lang thang trên địa bàn phường Trần Hưng Đ, thành phố Phủ Lý, đến khoảng 01 giờ cùng ngày, H và T đi đến khu vườn của ông Bùi Văn T tại tổ dân phố M, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý thì H và T xuống xe, sử dụng đèn pin đi vào trong vườn của ông T, tại đây T nhìn thấy có 03 cây hoa hồng được trồng trong chậu nên nảy sinh ý định trộm cắp những cây hoa hồng này, T nói với H: “Để em đào cây hồng này về trồng”, thì H nói: “Ừ, đào đi”. T dùng hai tay túm vào gốc cây nhổ lần lượt được hai cây hoa hồng lên còn H đi ra bên ngoài đường cảnh giới. Khi T đang nhổ cây hồng thứ ba thì thấy H điều khiển xe môtô bỏ đi, sợ bị phát hiện nên T dừng lại, bỏ đi ra ngoài. Sau đó T và H quay lại vườn của ông T, T dùng đèn pin soi và dùng tô vít đào được cây hoa hồng thứ ba, T cầm cây hoa hồng vừa đào được đi ra ngoài đường rồi cùng H mang cây hoa hồng về nhà H cất giấu. Sau đó, H chở Tvề nhà T lấy xe môtô BKS: 90H1-7151 rồi mỗi người đi một xe quay lại vườn nhà ông T, T đi vào trong vườn cầm 02 cây hoa hồng đã nhổ được trước đó mang ra đưa cho H 01 cây, còn 01 cây T mang về nhà cất giấu. Sau khi phát hiện bị mất 03 cây hoa hồng trồng trong vườn, ông Bùi Văn T đã đến Công an phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý trình báo sự việc.

Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm:

- Thu giữ tại nhà Trần Bá T 01 cây hoa hồng cao 1,30m được chia làm ba thân, thân thứ nhất có đường kính 07cm, thân thứ hai đường kính 04cm, thân thứ ba đường kính 02cm, tán rộng nhất 50cm; tạm giữ 01 xe môtô nhãn hiệu HONLEI Wave màu xanh, BKS: 90H1-7151.

- Thu giữ tại nhà Vũ Trọng H 01 cây hoa hồng cao 1,0m được chia làm ba thân, thân thứ nhất có đường kính 05cm, thân thứ hai đường kính 02cm, thân thứ ba đường kính 03cm, tán rộng nhất 80cm; 01 cây hoa hồng cao 1,0m được chia làm ba thân, thân thứ nhất có đường kính 05cm, thân thứ hai đường kính 02cm, thân thứ ba đường kính 02cm, tán rộng nhất 80cm; thu giữ tại nơi ở của H 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Airblade, BKS: 90B1-351.91, 01 tô vít loại 04 cạnh bằng kim loại có cán nhựa, 01 đèn pin loại đeo trên đầu nhãn hiệu Akasha.

- Thu giữ 01 đăng ký môtô, xe máy của xe môtô BKS: 90B1-351.91mang tên Lê Thị Liên do chị Nguyễn Thị D (vợ của Vũ Trọng H) tự nguyện giao nộp.

- Thu giữ 01 đăng ký môtô, xe máy của xe môtô BKS: 90H1-7151 mang tên Nguyễn Thị H do chị Nguyễn Thị H (chị của Trần Bá T) tự nguyện giao nộp.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 47/2019 ngày 30/05/2019, Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận:“ 01 cây hoa hồng cao 1,30m được chia làm ba thân, thân thứ nhất đường kính 07cm, thân thứ hai đường kính 04cm, thân thứ ba đường kính 02cm, tán rộng nhất 50cm, được chia làm nhiều nhánh nhỏ, bầu đất cây cao 20cm, đường kính 18cm giá 500.000 đồng; 01 cây hoa hồng cao 1,0m được chia làm ba thân, thân thứ nhất đường kính 05cm, thân thứ hai đường kính 02cm, thân thứ ba đường kính 03cm,các thân được chia làm nhiều nhánh nhỏ tán rộng nhất 80cm, bầu đất cây cao 18cm, đường kính 20cm giá 300.000 đồng; 01 cây hoa hồng cao 1,0m được chia làm ba thân, thân thứ nhất đường kính 05cm, thân thứ hai đường kính 02cm, thân thứ ba đường kính 02cm,các thân được chia làm nhiều nhánh nhỏ tán rộng nhất 80cm, bầu đất cây cao 20cm, đường kính 18cm giá 300.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 1.100.000 đồng”.

Ngày 31/05/2019, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho ông Bùi Văn T 03 cây hoa hồng đã bị Trần Bá T và Vũ Trọng H lấy trộm ngày 24/05/2019.

Bản cáo trạng số 119/CT-VKS-PL ngày 06/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trần Bá T (tên khác Bùi Xuân T) vtội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Trần Bá T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Trần Bá T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Bá T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Bá T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp chứng cứ khác của vụ án như biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, biên bản thu giữ vật chứng, tạm giữ phương tiện, khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng; lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Trần Bá T (tên khác Bùi Xuân T) là người đã nhiều lần bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Khoảng 01 giờ ngày 24/05/2019, tại tổ dân phố Mễ Nội, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, lợi dụng đêm tối và sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của người khác, Trần Bá T đã lén lút lấy trộm của ông Bùi Văn T 03 cây hoa hồng trị giá 1.100.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do 03 lần bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” (chưa được xóa án tích), bản thân nghiện ma túy do đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy” (chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); đã từng nhiều lần bị kết án, xử phạt vi phạm hành chính về tội: “Trộm cắp tài sản” và các hành vi: “Trộm cắp tài sản”, “Sử dụng trái phép chất ma túy”, “Xâm hại sức khỏe thành viên trong gia đình” và chữa bệnh bắt buộc (đều đã được xóa án tích và hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo còn thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật ở chỗ bản thân là người đã nhiều lần bị kết án phạt tù về tội: “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh, tu dưỡng bản thân mà sau khi chấp hành xong hình phạt tù lại tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo không những gây hậu quả thiệt hại về tài sản cho người khác mà còn gây mất trật tự, trị an khu dân cư, tạo nên tâm lý lo ngại, bức xúc trong nhân dân. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có đủ tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là đối tượng sống lang thang, bản thân nghiện ma túy không có nghề nghiệp và thu nhập nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Đối với Vũ Trọng H là đối tượng đã cùng bị cáo Trần Bá T thực hiện hành vi trộm cắp 03 cây hoa hồng của ông Bùi Văn T, do giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân H mặc dù từng nhiều lần bị kết án về các tội xâm phạm quyền sở hữu nhưng đều đã được xóa án tích nên hành vi này của H không cấu thành tội phạm, Cơ quan điều tra không xử lý H về mặt hình sự mà quyết định xử phạt hành chính hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng đối với H là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu hồi được tài sản bị cáo chiếm đoạt là 03 cây hoa hồng trị giá 1.100.000 đồng trả lại cho bị hại. Ông Bùi Văn T không có đề nghị gì thêm về việc bồi thường. Vì vậy, trách nhiệm dân sự trong vụ án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với 01 xe môtô nhãn hiệu HONLEI Wave, BKS: 90H1-7151 và 01 đăng ký môtô, xe máy xe môtô BKS: 90H1-7151, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị H (chị dâu bị cáo T), do chị H cho T mượn chiếc xe để đi lại, không biết T sử dụng làm phương tiện phạm tội nên sẽ trả lại những tài sản này cho chị H.

+ Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu HONDA Airblade, BKS: 90B1-351.91 và 01 đăng ký môtô, xe máy xe môtô BKS: 90B1-351.91 mang tên Lê Thị L, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bà Phạm Thị M (mẹ đẻ Vũ Trọng H), do bà Mơ cho H mượn xe để đi lại, không biết H sử dụng làm phương tiện để phạm tội nên sẽ trả lại những tài sản này cho bà M.

+ Đối với 01 chiếc tô vít loại bốn cạnh, 01 đèn pin loại treo trên đầu là những vật bị cáo Trần Bá T và Vũ Trọng H đã sử dụng làm công cụ phạm tội, do các đồ vật này không còn giá trị sử dụng nên sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Trần Bá T (tên gọi khác Bùi Xuân T) phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 24/05/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho chị Nguyễn Thị H 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONLEI Wave, màu sơn xanh, BKS: 90H1-7151, số khung: RMNWCH4MN6H001626, số máy: VLFAVIP52MH-35L24126 và 01 (một) giấy đăng ký xe máy, xe môtô, số: 0020920, tên chủ xe Nguyễn Thị Hiền, địa chỉ: Lan Mát, Kiện Khê, Thanh Liêm, Hà Nam của xe máy nhãn hiệu HONLEI, BKS: 90H1-7151 do Phòng CSGT Công an tỉnh Hà Nam cấp ngày 05/03/2007.

- Trả lại cho bà Phạm Thị M 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA Airblade, sơn màu vàng, BKS: 90B1-351.91, số khung: 2707BY699734, số máy: 1483525 và 01 (một) giấy đăng ký xe máy, xe môtô số: 045155, tên chủ xe: Lê Thị Liên, sinh năm 1967, địa chỉ: Lê Lợi, Phù Vân, Phủ Lý, Hà Nam của xe máy nhãn hiệu Honda Airblade, BKS: 90B1-351.91do Phòng CSGT Công an tỉnh Hà Nam cấp ngày 14/11/2012.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) tuốc nơ vít loại 4 cạnh, phần chuôi bằng nhựa màu đỏ vàng, phần thân bằng kim loại màu trắng và 01(một) đèn pin loại đèn pin đeo trên đầu, sơn màu xanh - vàng, nhãn hiệu Akasha Model AKS-209, 35W.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 12/8/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trần Bá T (tên khác Bùi Xuân T) nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

450
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:119/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về