TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 119/2017/HSST NGÀY 07/09/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 07 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 106/2017/HSST ngày 11 tháng 8 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/HSST- QĐXX ngày 28/8/2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn D Sinh ngày 10/4/1999. Nơi cư trú: Thôn Diên Lộc, xã Hòa Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12 Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không. Con ông: Nguyễn Văn B – sinh năm 1974, và bà: Nguyễn Thị H – sinh năm 1980; Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại (Có mặt).
- Người bị hại:
1. Nguyễn Việt A – sinh năm 1999 (đã chết)
2. Nguyễn Hữu H – sinh năm 1994, trú tại: Khu đô thị mới, thị trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ( vắng mặt)
3. Nguyễn Quốc A – sinh năm 2000, trú tại: thôn Chi Long, xã Long Châu, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt)
4. Nguyễn Đức L – sinh năm 2000, trú tại: thôn Ngô Xá, xã Long Châu, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt)
- Người đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Việt Anh:
Ông Nguyễn Văn Đ – sinh năm 1976, trú tại: thôn Diên Lộc, xã Hòa Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ( Là bố đẻ người bị hại Nguyễn Việt A), Có mặt.
Bà Nguyễn Thị T – sinh năm 1978, trú tại: thôn Diên Lộc, xã Hòa Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ( Là mẹ đẻ người bị hại Nguyễn Việt A), vắng mặt.
- Người đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Quốc Anh: Ông Nguyễn Văn Th – sinh năm 1968, trú tại: thôn Chi Long, xã Long Châu, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (Là bố đẻ Nguyễn Quốc A), vắng mặt
- Người đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Đức Linh: Ông Nguyễn Đức L – sinh năm 1976, trú tại: thôn Ngô Xá, xã Long Châu, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (Là bố đẻ Nguyễn Đức L), vắng mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn B – sinh năm 1974, trú tại: thôn Diên Lộc, xã Hòa Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 10/02/2017, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream II, biển kiểm soát: 29H1-8777 (D không có Giấy phép lái xe theo quy định) chở Nguyễn Việt A – Sinh ngày: 01/7/1999 ở cùng thôn đi từ thôn Ngô Nội – xã Trung Nghĩa – huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh ra đường tỉnh lộ 286 để về nhà. Khi ra đến đường tỉnh lộ 286, Duy điều khiển xe chạy bên phải đường hướng từ xã Long Châu – thị trấn Chờ. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn Ngô Nội – xã Trung Nghĩa thì D ngoảnh mặt lại phía sau nói chuyện với Nguyện Việt A nên không quan sát được phía trước. Đúng lúc này, xe mô tô do D điều khiển đâm vào đuôi chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO đi phía trước cùng chiều do cháu Nguyễn Quốc A điều khiển chở cháu Nguyễn Đức L ngồi sau. Chiếc xe đạp điện bị đổ còn cháu Quốc A và cháu L bị ngã xuống đường. Chiếc xe mô tô cùng với D và anh Việt A lao sang phần đường ngược chiều và đổ xuống đường. D và Việt A văng ra khỏi xe và ngã xuống đường. Đúng lúc này, ở phần đường ngược chiều có anh Nguyễn Hữu H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Future, biển kiểm soát: 99H9-9289 đang đi theo hướng thị trấn Chờ - Long Châu đi tới. Theo lời khai của anh H: do sự việc xảy ra bất ngờ và nhanh nên anh H đã va vào vật gì đó và bị ngã ra đường bất tỉnh. Hậu quả: anh Việt A bị thương nặng, được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Yên Phong rồi chuyển lên Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh nhưng do vết thương quá nặng nên đã chết cùng ngày. D cùng anh H bị thương được mọi người đưa đi viện cấp cứu và điều trị. Cháu Quốc A và cháu L bị thương nhẹ được mọi người đưa đi sơ cứu.
1. Khám nghiệm hiện trường cho thấy: Hiện trường nơi khám nghiệm là đường tỉnh lộ 286 nối giữa Thành phố Bắc Ninh và thị trấn Chờ - huyện Yên Phong thuộc địa phận thôn Ngô Nội – xã Trung Nghĩa. Đoạn đường này dải nhựa phẳng, có vạch kẻ đường phân chia hai phần đường, lòng đường rộng 14,5m.
Lấy cột điện ngầm số H2/5B-9A làm mốc, lấy mép đường bên phải chiều từ thị trấn Chờ đi Thành phố Bắc Ninh làm chuẩn để thể hiện các thông số đo đạc trên hiện trường.
Trên hiện trường phát hiện xe môtô nhãn hiện Honda, loại xe Future, màu đỏ, xe mang biển kiểm soát 99H9 – 9289, xe trong tình trạng đổ nghiêng trái xuống mặt đường, đầu xe hướng về thành phố Bắc Ninh, đuôi xe hướng về thị trấn Chờ, trục trước của xe cách mép đường chuẩn là 71cm và cách cột điện ngầm số H2/5B-9A là 7m24, trục sau của xe cách mép đường chuẩn là 35cm.
Trên mặt đường phát hiện 05 vết cày xước: vết cày xước (1) có kích thước (26,84 x 0,03)m, chiều hướng thành phố Bắc Ninh – thị trấn Chờ, điểm đầu cách mép đường chuẩn là 7,8m và cách cột điện ngầm số H2/5B-9A là 10,8m, điểm cuối cách mép đường chuẩn là 4,68m, điểm đầu vết cày xước (1) cách điểm đầu vết cày xước (2) là 4,12m.
Vết cày xước (2) có kích thước (18,84 x 0,015)m, điểm đầu cách mép đường chuẩn là 7,43m, điểm cuối cách mép đường chuẩn là 4,95m, vết này có chiềuhướng thành phố Bắc Ninh – thị trấn Chờ. Điểm đầu vết cày xước (2) cách điểm đầu vết cày xước (3) về phía thị trấn Chờ là 0,95m.
Vết cày xước (3) có kích thước (7,1 x 0,05)m chiều hướng thành phố Bắc Ninh – thị trấn Chờ, điểm đầu cách mép đường chuẩn là 6,97m, điểm cuối cách mép đường chuẩn là 6,07m.
Điểm đầu vết cày xước (1) cách điểm đầu vết cày xước (4) về phía bên trái đường về phía thị trấn Chờ là 2,71m, vết cày xước (4) có dạng một đám trà xước trên mặt đường có kích thước (9,54 x 0,23)m, chiều hướng thành phố Bắc Ninh – Thị trấn Chờ, điểm đầu cách mép đường chuẩn là 8,93m, điểm cuối cách mép đường chuẩn là 9,05m.
Vết cày xước (5) không liên tục có kích thước là (6,97 x 0,05)m chiều hướng từ lòng đường ra mép đường chuẩn, điểm đầu cách mép đường chuẩn là 2,12m, điểm cuối cách mép đường chuẩn và cách trục sau xe môtô BKS: 99H9 – 9289 là 4,81m.
Trên mặt đường phát hiện vết trượt trà sát (6) dạng trượt trà sát trên mặt đường có kích thước (11,2 x 0,0157)m chiều hướng thị trấn Chờ - thành phố Bắc Ninh, điểm đầu cách mép đường chuẩn là 2,97m và cách điểm đầu vết cày xước (5) là 2,06m, điểm cuối nằm tại vị trí phía dưới cánh yếm bên trái xe môtô BKS: 99H9 – 9289 và cách mép đường chuẩn là 1,14m.
Trên mặt đường phát hiện có vết máu (M) dạng cục đông có kích thước (0,46 x 0,42)m, tâm vết máu cách mép đường chuẩn là 3,2m và cách điểm cuối vết cày xước (2) là 5,15m.
Trên mặt đường phát hiện vết dầu loang ở sát tại vị trí điểm cuối vết cày xước (1) và có kích thước (0,30 x 0,36)m, tâm vết dầu cách điểm cuối vết (1) này là 0,28m.
2. Kết quả khám nghiệm phương tiện cho thấy:
2.1. Khám nghiệm phương tiện xe máy điện::
Xe máy điện sơn màu đỏ, nhãn hiệu ESPERO, SK RPEYDDGPEGA 225357, SM: RPEYD500W 225357.
Cạnh trên góc trước trái giỏ xe có vết trà xước tróc sơn mài mòn kim loại kích thước (1,5 x 0,4)cm, đối diện cạnh dưới có vết trà xước kích thước (0,2 x 1)cm; Mặt ngoài đến trước khung kim loại đỡ giỏ xe phía bên trái có vết trà xước mài mòn kim loại kích thước (1 x 0,2)cm.
Đầu mỏm chắn bùn phía trước bánh trước bị vỡ, vết vỡ đã cũ.Toàn bộ bề mặt cạnh trái lốp trước bị mài mòn cao su rộng nhất 1,5cm, nhỏ nhất 0,6cm. Đầu mỏm tay phanh trái bị trà xước tróc sơn mài mòn kim loại kích thước (1 x 0,6)cm.
Đầu mặt trước đến mỏm tay lái trái bị trà xước mài mòn cao su kích thước (2,5 x 0,5)cm, hướng từ trong ra ngoài từ trước về sau.
Ốp nhựa bên trái để chân dải rác có nhiều vết trà xước bong tróc sơn, mài mòn nhựa trên diện (43,5 x 23,7)cm.
Đầu ngoài thanh kim loại đỡ chân chống phụ có vết trà xước mài mòn kim loại kích thước (1,1 x 0,4)cm
Mặt ngoài cần gạt chân chống chính rải rác có nhiều vết trà xước tróc sơn mài mòn kim loại trên diện (9,5 x 0,8)cm.
Ốp nhựa cạnh trái đèn xi nhan trái phía sau có vết vỡ nhựa kích thước (5,5 x 3,5)cm.
Cạnh dưới đầu phía ngoài để chân người ngồi sau trái có vết trà xước kích thước (1,5 x 0,4)cm, toàn bộ cạnh phía sau và mặt phía trên bị trà xước mài mòn bám dính chất màu trắng diện (6,5 x 1)cm.
Má lốp trái có vết trà xước cao su kích thước (7 x 3)cm, tâm cách chân van ngược chiều tiến bánh xe, cạnh vành ở vị trí này có vết xước mài mòn kim loại kích thước (0,4 x 0,3)cm.
Cạnh hộp kim loại ốp má phanh sau phía bên trái có vết trà xước mài mòn kim loại dài (1 x 0,1)cm, đối diện vết này ở bề mặt hộp có vết trà xước kim loại kích thước (0,3 x 0,4)cm, tâm vết cách đất 19cm, để chân người sau bên trái cách đất 25cm. Chắn bùn sau đuôi bên trái bị biến dạng từ sau ra trước, từ trái sang phải.Giá kim loại bên trái đỡ chắn bùn phía sau bị đẩy từ phải sang trái làm đầu phía sau chắn bùn biến dạng theo. Toàn bộ phần bên phải không phát hiện dấu vết gì.
2.2. Khám nghiệm phương tiện xe mô tô BKS 99H9 – 9289 : Cạnh trái đến đầu mỏm chắn bùn trước rải rác có nhiều vết trà xước tróc sơn trên diện (2,5 x 0,5)cm.
Đầu mỏm tay phanh trước bị gãy (vết gẫy cũ). Gương chiếu hậu bên phải bị đẩy theo chiều từ sau ra trước, phải sang trái, mặt gương hướng phía trước đầu xe, ngoài ra phần còn lại bên phải đầu xe không phát hiện dấu vết gì mới.
Ốp nhựa vai càng trái bị nứt, vỡ trên diện (15,5 x 7)cm. Mặt đèn xi nhan trái trước bị trà xước rải rác trên diện (8 x 1,2)cm. Bề mặt bên trái kính đèn pha bị trà xước mài mòn diện (7,2 x 10)cm, hướng không xác định. Các cạnh ốp nhựa phía chân gương trái bị trà xước mài mòn tróc sơn diện (6x13)cm, hướng không xác định.
Tay lái bên trái bị biến dạng theo chiều từ trên xuống dưới, từ trước ra sau làm gương chiếu hậu bị biến dạng từ trước ra sau, mặt gương hướng sang phải và bị vỡ hoàn toàn, ốp cao su chân gương bị rách nham nhở, tại góc gập chân gương có vết trà xước mài mòn kim loại bám dính chất màu trắng trên diện (4 x 0,6)cm. Toàn bộ bề mặt mỏm tay lái bên trái bị trà xước mài mòn kim loại bám dính chất màu trắng. Cánh yếm trái bị vỡ hoàn toàn bung rời khỏi xe.
Ốp nhựa bên trái dưới gác ba ga có vết vỡ rơi mảnh kích thước (8 x 12)cm. Đầu trước cần số bị biến dạng theo chiều từ trước ra sau, bàn đệm bị gẫy gập vào trong. Cạnh phía dưới bàn đệm có vết trà xước kim loại bám dính chấy bẩn màu trắng kích thước (3 x 0,2)cm. Đầu mỏm lõi sắt để chân người lái trái có vết trà xước bám dính chất màutrắng kích thước (0,7 x 0,5)cm.
Mặt phía trên và đầu ngoài để chân bên trái người ngồi sau bị trà xước mài mòn cao su kích thước (9 x 3,5)cm, để chân bị gãy khỏi giá đỡ kim loại, ốp kim loại đầu mỏm bị đẩy biến dạng đầu phía trên vào trong và có vết trà xước kim loại kích thước (3,8 x 2,5)cm. Mặt ngoài tay sách bên trái có nhiều vết trà xước mài mòn kim loại trên diện (25x3,5)cm. Cạnh bên trái biển số rải rác có nhiều vết trà xước mài mòn kim loại kích thước (14 x 0,2)cm.Cần gạt chân chống chính bị biến dạng chiều từ sau ra trước, ở vết gập bị bong tróc sơn, cần gạt bị bật ra khỏi chân chống ở mối hàn.Mặt sau tại điểm uốn cần gạt có vết trà xước mài mòn kim loại bám dính chất màu trắng kích thước (2,5 x 0,6)cm. Bu lông bắt vít nhông xích và bàn đệm bu lông bị trà xước kim loại bám dính chất màu trắng trên diện (3,5 x 0,5)cm.
Các hệ thống phanh, còi, đèn còi hoạt động bình thường
2.3. Khám nghiệm xe mô tô BKS 29H1 – 8777:
Giỏ xe bị méo bẹp biến dạng, cạnh trên và cạnh dưới bên phải giỏ xe bị trà xước tróc sơn và mài mòn kim loại cạnh trên kích thước (6,5 x 0,6)cm, cạnh dưới kích thước (7 x 3,5)cm chiều hướng từ trên xuống dưới từ trước ra sau.
Kính đèn pha bị vỡ góc trên bên phải kích thước (3 x 9)cm. Kính đèn xi nhan phải vỡ mất nhựa hoàn toàn. Đầu mỏm tay phanh mặt trước bị trà xước mài mòn kim loại kích thước (0,8 x 0,7)cm, hướng không xác định. Mặt trước đầu mỏm tay lái bên phải có vết trà xước mài mòn cao su kích thước (1,6 x 2,2)cm, hướng từ trong ra ngoài.
Cần phanh chân bị biến dạng gập theo chiều từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, bề mặt phía trước cần phanh bị trà xát bám dính chất bẩn màu đen kích thước (6,5x0,2)cm, mặt trước bàn đạp chân phanh rải rác có vết trà xước bám dính chất màu đen kích thước (1,5 x 0,5)cm, cạnh dưới và mặt dưới tương ứng vết này rải rác bị mài mòn kim loại và bám dính chất màu đen, cần phanh bị cố định không dịch chuyển được.
Để chân bên phải người lái bị biến dạng từ trước ra sau, mặt dưới đến mỏm ốp cao su bị trà xước mài mòn kích thước (2,5 x 3,5)cm, hướng từ trong ra ngoài, từ trước ra sau, ngoài ra không còn dấu vết gì mới.
Cạnh trên và cạnh dưới giỏ xe phía trái bị trà xước tróc sơn và mài mòn kim loại, cạnh trên kích thước (13 x 0,6)cm, cạnh dưới kích thước (10,5 x 8)cm, hướng từ trước ra sau. Má lốp trái bánh trước có 02 vết trà xước cao su, một vết dài (42 x 1,2)cm, một vết dài (52 x 0,5)cm.
Mặt dưới đến trục bên trái bánh trước có vết trà xước mài mòn kim loại kích thước (0,8 x 0,3)cm, trên vết trà xước có bám dính chất màu trắng hướng từ trước ra sau.
Cạnh ngoài đầu dưới càng bên trái có vết trà xước mài mòn kim loại kích thước (1,2 x 0,8)cm, hướng từ trước ra sau.
Mặt trước đầu mỏm tay lái bên trái có vết trà xước mài mòn cao su lộ lõi kim loại bên trong vết trà xước kích thước (2,5 x 3,3)cm, phần kim loại bị mài mòn kích thước (0,5 x 1,5)cm, hướng từ trước ra sau.
Mặt trước đến dưới cùng cánh yếm bên trái có vết trà xước mài mòn nhựa kích thước (4 x 0,6)cm, hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau.
Mặt dưới, cạnh ngoài bàn đệm kim loại cần số trước có vết trà xước mài mòn kim loại kích thước (0,8 x 0,1)cm.
Mặt dưới trước đầu mỏm để chân người lái bên trái bị trà xước mài mòn cao su lộ phần lõi kim loại bên trong, phần cao su bị mài mòn kích thước (4 x 3,5)cm, phần lõi kim loại bên trong bị mài mòn đường kính 1,3cm, tập trung nhiều đầu dưới lõi sắt, trên vết mài mòn bám dính chất bẩn màu trắng không xác định chiều hướng.
Ốp kim loại để chân người ngồi sau bên trái rải rác có nhiều vết trà xước kim loại kích thước (2,7 x 3)cm.
Đầu dưới cạnh bên trái biển số có vết trà xước mài mòn kim loại kích thước (0,2 x 2,6)cm.
Mặt ngoài tay xách bên trái rải rác có nhiều vết trà xước kim loại kích thước (18 x 1,7)cm.
3. Kết quả khám nghiệm tử thi:
Giải phẫu vùng đầu qua diện phù nề vùng thái dương trái thấy tụ máu dưới da vùng thái dương bên trái và vùng chẩm trái diện rộng. Vỡ xương hộp sọ vùng thái dương trái dạng phức tạp thành nhiều mảnh diện đo được 8 x 6cm. Qua vết vỡ xương hộ sọ thấy rách màng cứng, dập tổ chức não bên trong. Vết vỡ xương hộp sọ lan vào ống tai trái.
Ngày 10/02/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong có Quyết định trưng cầu giám định số 78/QĐ gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh để trưng cầu giám định nguyên nhân chết của anh Nguyễn Việt A.
Ngày 22/02/2017 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh có Bản kết luận giám định pháp y số 172/GĐ-PC54 kết luận: Nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Việt A là do chấn thương sọ não nặng.
Ngày 13/02/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong có Quyết định trưng cầu giám định số 81/QĐ gửi Viện khoa học hình sự Bộ Công an để trưng cầu giám định mẫu chất màu nâu đỏ thu ở hiện trường (ký hiệu M) có phải là máu người không? Nếu có, có phải là máu của nạn nhân Nguyễn Việt A không? Tại Kết luận giám định số 659/C54(TT3) ngày 31/3/2017 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: dấu vết ghi thu tại hiện trường (ký hiệu M) là máu của nạn nhân Nguyễn Việt A.
Quá trình điều tra, ông Nguyễn Văn B (là bố đẻ của bị can D) đã bồi thường số tiền 100.000.000đ cho gia đình cháu Nguyễn Việt A. Gia đình cháu Nguyễn Việt A đã nhận số tiền trên và không có yêu cầu gì khác về phần dân sự. Cháu Nguyễn Quốc A và cháu Nguyễn Đức L bị thương nhẹ nên không yêu cầu bồi thường gì về mặt dân sự. Anh Nguyễn Hữu H bị thương nhẹ nên không đi giám định tỷ lệ thương tật và không có yêu cầu bồi thường gì về mặt dân sự.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn D khai nhận bản thân bị cáo không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định, vào ngày 10/02/2017 bị cáo có tự ý lấy chiếc xe mô tô HonDa Dream II, biển kiểm soát 29H1-8777 có dung tích xi lanh 100cm3 của bố bị cáo rồi điều khiển chở bạn là Nguyễn Việt A ngồi sau khi đi đến khu vực thôn Ngô Nội, xã Trung Nghĩa không chú ý quan sát nên đã đâm vào sau xe máy điện do cháu Nguyễn Quốc A điều khiển đèo cháu Nguyễn Đức L đi đằng trước, sau đó xe mô tô do D điều khiển lao sang phần đường ngược chiều va vào xe mô tô do anh Nguyễn Hữu H điều khiển dẫn đến anh Việt A ngồi sau xe bị cáo bị thương nặng rồi chết, cháu Quốc A, cháu L và anh H bị thương nhẹ. Bị cáo thừa nhận nguyên nhân xảy ra tai nạn dẫn đến anh Việt A chết là do bị cáo đã không chú ý quan sát khi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông trên đường.
Về phía Ông Nguyễn Văn Đ tại phiên tòa hôm nay xác nhận sau khi cháu Việt A chết thì bị cáoD và gia đình đã đến thỏa thuận bồi thường cho vợ chồng ông, bà số tiền là 100.000.000đ. Tại phiên tòa hôm nay ông, bà không yêu cầu bị cáo D phải bồi thường gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo D.
Về phía Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn B xác nhận ông là bố đẻ bị cáo D, vào ngày 10/02/2017 ông có để chiếc xe mô tô HonDa Dream BKS 29H1 – 8777 của ông ở nhà, còn bản thân vợ chồng ông đi làm, khi D lấy chiếc xe mô tô của ông để đi chơi thì D không hề hỏi ý kiến ông, chỉ khi xảy ra tai nạn thì ông mới biết D đã tự ý lấy xe của ông để đèo bạn đi chơi. Sau khi biết tin D điều khiển xe mô tô chở bạn là cháu Việt A gây tai nạn dẫn đến cháu Việt A chết thì vợ chồng ông đã đến nhà cháu Việt A thăm viếng và tự nguyện bồi thường cho bố mẹ cháu Việt A số tiền 100.000.000đ, đây là trách nhiệm của vợ chồng ông đối với con cái, vì vậy nay ông không yêu cầu D phải hoàn trả ông số tiền trên. Về chiếc xe mô tô ông đã được trao trả nên tại phiên tòa ông không có yêu cầu gì.
Bản cáo trạng số 105/CTr –VKS ngày 09/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh truy tố Nguyễn Văn D về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận xác định Nguyễn Văn D không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định đã điều khiển xe mô tô tham gia giao thông không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ đã gây tai nạn làm chết một người nên hành vi của Nguyễn Văn D đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Dó đó, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nguyễn Văn D phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ” và đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm p, b khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60; Điều 69; Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt Nguyễn Văn D từ 26 tháng đến 28 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 52 tháng đến 56 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra xem xét
Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự. Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong bên trong có một đoạn cần phanh chân của xe motoo 29H1-8777; 01 phong bì thư niêm phong bên trong có một chiếc để chân người ngồi sau bên trái, sơn màu đen của xe máy điện; 01 phong bì thư niêm phong bên trong chứa mẫu máu còn lại sau giám định.
Sau khi nghe kết luận, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì.
Trong lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Văn D đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay hoàn toàn phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản khám nghiệm xe mô tô biển kiểm soát 29H1-8777 và xe mô tô biển kiểm soát tô 99H9 - 9289 và xe máy điện; phù hợp với lời khai của những người làm chứng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi vi phạm quy định Luật giao thông đường bộ của Nguyễn Văn D dẫn đến tai nạn giao thông làm chết một người đã phạm tội “Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố nên đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay cần được chấp nhận.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm vào khoản 9 Điều 8 và khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ, xâm phạm đến trật tự công cộng và an toàn công cộng, gây mối lo ngại cho mọi người khi tham gia giao thông trên đường do vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng luật hình sự nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung .
Trong lúc tình hình tai nạn giao thông ngày càng gia tăng, Nhà nước đã chủ chương yêu cầu các cơ quan chức năng tuyên truyền cảnh báo đến mọi người dân cần nêu cao tinh thần chấp hành luật lệ giao thông khi tham gia giao thông trên đường. Bản thân bị cáo không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định do chưa đủ tuổi nhưng bị cáo đã cố tình điều khiển xe mô tô có phân khối phải có giấy phép lái xe tham gia giao thông, không những vậy khi điều khiển xe mô tô đã không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ nên đã đâm vào sau xe điện do cháu Quốc Anh điều khiển phía trước làm xe mô tô do bị cáo điều khiển lao sang phần đường ngược chiều và va vào xe mô tô do anh Hải điều khiển là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới tai nạn làm anh Nguyễn Việt A ngồi sau xe bị cáo bị chết. Hành vi phạm tội của bị cáo không những thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác mà còn gây ra cảnh đau thương mất mát cho gia đình người bị nạn do vậy xét thấy đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra.
Tuy nhiên, xét thấy nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay đã có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Sau khi tạn nạn xảy ra bị cáo cùng gia đình đã tích khắc phục hậu quả bồi thường cho gia đình anh Nguyễn Việt A số tiền 100.000.000đồng, mặt khác về phía gia đình người bị hại là bố, mẹ đẻ anh Việt A cũng đã có đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự do đó Hội đồng xét xử nhận thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo với đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài ra xét thấy thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, nhận thức pháp luật còn hạn chế vì vậy khi quyết định hình phạt cần áp dụng Điều 69; khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự để cho bị cáo được hưởng mức hình phạt tương xứng với độ tuổi khi phạm tội.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà hôm nay ông Nguyễn Văn Đ là bố đẻ người bị hại Nguyễn Việt A xác nhận bị cáo và gia đình đã bồi thường cho vợ chồng ông số tiền là 100.000.000 đồng, nay vợ chồng ông không yêu cầu bồi thường gì thêm do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Đối với người bị hại Nguyễn Hữu H, Nguyễn Quốc A và Nguyễn Đức L tại phiên tòa vắng mặt song trong quá trình điều tra đều cho biết do thương tích nhẹ nên từ chối giám định và không yêu cầu bồi thường do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Về vật chứng vụ án: Chiếc xe mô tô BKS 29H1- 8777; chiếc xe mô tô BKS 99H99289 và chiếc xe máy điện, quá trình điều tra đã được Cơ quan điều tra công an huyện Yên Phong trao trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.
Đối với các mẫu vật gửi đi giám định được đựng trong 03 phong bì niêm phong, xét thấy không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với ông Nguyễn Văn B là chủ chiếc xe mô tô HonDa Dream BKS 29H1-8777. Ngày 10/02/2017, ông B có đi chơi và để chiếc xe trên cùng chìa khóa ở nhà. Khi D lấy xe điều khiển chở bạn đi chơi không nói cho ông B biết. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong không đề nghị xử lý mà chỉ gọi hỏi nhắc nhở là phù hợp.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ,,
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60; Điều 69; khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự, xử phạt:
Nguyễn Văn D 27 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 54 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (07/9/2017). Giao bị cáo Nguyễn Văn D cho Uỷ ban nhân dân xã Hòa Tiến – huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo giục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999. Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong bên trong có một đoạn cần phanh chân của xe mô tô 29H1-8777; 01 phong bì thư niêm phong bên trong có một chiếc để chân người ngồi sau bên trái, sơn màu đen của xe máy điện; 01 phong bì thư niêm phong bên trong chứa mẫu máu còn lại sau giám định.
Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự.Nghị quyết 326/2016/NQ-QH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án.
Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo; Người đại diện hợp pháp của người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại, Người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định./.
Bản án 119/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội vi phạm qui định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 119/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về