Bản án 118/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 118/2019/HS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 114/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh H, sinh năm 1996. Tại: B. Nơi ĐKHKTT: H190, tổ 52, khu 5, phường H, thành phố T, tỉnh B. Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Cha Nguyễn Văn H (đã chết), mẹ Nguyễn Thị Thu T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị bắt ngày 04/01/2019 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Kiên C, sinh năm 1992. Địa chỉ: tổ 4, ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh B (vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Đặng Phú Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 04/01/2019, trong lúc Nguyễn Minh H đang ở nhà tại số H190, tổ 52, khu 5, phường H, thành phố T, tỉnh B thì H nảy sinh ý định đi mua ma túy về sử dụng nên H sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia của H có số thuê bao 0921.281.xxx gọi đến số 0908.406.xxx của người nam tên P (Không rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua ma túy với số tiền 1.600.000 đồng thì P đồng ý và P hẹn H đến khu vực ngã ba P thuộc phường P, thành phố T, tỉnh B để giao ma túy. Ngay sau đó, H điều khiển xe mô tô biển số 93B1-068.xx đi đến khu vực ngã ba P để gặp P. Tại đây, H gặp P rồi đưa cho P số tiền 1.600.000 đồng, đồng thời, P chỉ cho H thấy 01 gói ma túy được P dán sẵn ở trụ điện cách chỗ H đứng khoảng 02 mét rồi P bỏ đi. Liền đó, H đến trụ điện cách chỗ H đứng khoảng 02 mét thì lấy được 01 gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng rồi H bỏ 01 gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng vào trong cốp xe mô tô biển số 93B1-068.xx rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày 04/01/2019, khi H điều khiển xe mô tô biển số 93B1-068.xx đi đến trước nhà số 183, đường H, khu 6, phường P, thành phố T, tỉnh B thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Thủ Dầu Một và Công an phường P, thành phố T thấy nghi vấn nên kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Minh H có hành vi Tàng trữ trái phép 01 gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được cất giấu trong cốp xe mô tô biển số 93B1-068.xx. Đồng thời, thu giữ: 01 gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô biển số 93B1-068.xx; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen.

Căn cứ Kết luận giám định số 92 ngày 06/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: 01 gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong bì thư có chữ ký người bị bắt Nguyễn Minh H, cán bộ niêm phong Đào Xuân Huy H, người chứng kiến Đặng Phú V và hình dấu đỏ Công an phường P, thành phố T là ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 2,1891 gam.

Đối với người nam tên P đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Minh H qua số thuê bao 0908.406.xxx, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công thành phố Thủ Dầu Một có Công văn số 274 ngày 01/4/2019 đề nghị Trung tâm thông tin di động Mobiphone cung cấp thông tin chủ thuê bao nói trên nhưng đến nay chưa nhận được kết quả trả lời. Đồng thời, do Nguyễn Minh H không rõ nhân thân lai lịch của người nam tên P nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công thành phố Thủ Dầu Một tiếp tục xác minh, điều tra xử lý.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen đỏ biển số 93B1-068.xx. Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do ông Nguyễn Kiên C, sinh năm 1992. Địa chỉ: tổ 4, ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh B đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Năm 2018, ông C bán xe mô tô biển số 93B1-068.xx cho Nguyễn Minh H, giữa ông C và H có làm Giấy mua bán xe nhưng hiện tại H đã làm thất lạc Giấy mua bán xe. Ngày 04/01/2019, Nguyễn Minh H sử dụng xe mô tô biển số 93B1-068.xx để làm phương tiện thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một xử lý theo thẩm quyền.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen là phương tiện Nguyễn Minh H sử dụng để thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

Đối với 01 gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng sau giám định 2,0590 gam Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

Cáo trạng số 129/CT-VKS-HS ngày 11/6/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Minh H đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H mức hình phạt từ 24 đến 30 tháng tù

Về biện pháp tư pháp: Đối với 01 (một) gói nylon chứa ma túy tổng trọng lượng sau giám định 2,0590 gam là tang vật của vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia màu đen (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động) và 01 xe mô tô đã qua sử dụng hiệu Yamaha Sirius được gắn biển số 93B1-068.xx màu đen đỏ (số khung RLCS5C640CY856631; số máy 5C64-856648); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 93B1-068.xx là phương tiện bị cáo sử dụng thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Minh H không có ý kiến tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Với hành vi tàng trữ trái phép ma túy có trọng lượng 2,1891 gam loại methamphetamine nhằm mục đích sử dụng mà bị cáo Nguyễn Minh H thực hiện đã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo với tội danh và điều khoản như trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Đối chiếu với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ vào nhân thân bị cáo, xét mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 (một) gói nylon chứa ma túy tổng trọng lượng sau giám định 2,0590 gam là tang vật của vụ án nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia màu đen (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động) và 01 xe mô tô đã qua sử dụng hiệu Yamaha Sirius được gắn biển số 93B1-068.xx màu đen đỏ (số khung RLCS5C640CY856631; số máy 5C64-856648); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 93B1-068.xx là phương tiện bị cáo sử dụng thực hiện hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 136, 260 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1./ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/01/2019.

2./ Về vật chứng của vụ án, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói nylon chứa ma túy tổng trọng lượng sau giám định 2,0590 gam.

- Tịch thu nộp vào Ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia màu đen (không kiểm tra chi tiết, tình hạng hoạt động) và 01 xe mô tô đã qua sử dụng hiệu Yamaha Sirius được gắn biển số 93B1- 068.xx màu đen đỏ (số khung RLCS5C640CY856631; số máy 5C64-856648); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 93B1- 068.xx.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 138.19 ngày 14/6/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

3./ Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Minh H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:118/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về