Bản án 118/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 118/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

Ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:404/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2019/QĐXX-ST ngày 25 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 56/2019/QĐ-HPT ngày 05/11/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị M, sinh ngày 08/10/1987.

Trú tại: xóm 5, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An

Nghề nghiệp: Làm ruộng(Có mặt)

- Bị đơn: Anh Phan Đình T, sinh ngày 09/8/1985.

Trú tại: xóm 5, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An

Nghề nghiệp: Làm ruộng. (Vắng mặt lần thứ 2 tại phiên tòa không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dụng đơn khởi kiện, trình bày tại bản tự khai và trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa thì vụ án có nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Thị M và anh Phan Đình T cưới nhau vào tháng 01/2011, trước khi cưới anh chị có quá trình tìm hiểu, hôn nhân trên cơ sở tình yêu và sự tự nguyện, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, được sự đồng ý của hai gia đình chứng kiến của xóm làng và bạn bè. Trước khi cưới Chị M, anh T đã đến UBND xã L, huyện Y, Nghệ An làm thủ tục đăng ký kết hôn, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 06/2011 ngày 01/11/2011. Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 01/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không phù hợp, chồng sống gia trưởng không thông cảm cho vợ, gây áp lực cho vợ buộc vợ phải làm ăn phát triển kinh tế gia đình, mỗi tháng phải đưa về cho anh T số tiền 10.000.000 đồng. Không đáp ứng được yêu cầu của chồng, anh T đã chửi bới hành hạ, xử sự thiếu tôn trọng vợ, mâu thuẫn xẩy ra liên tục, gây không khí ngột ngạt ảnh hưởng đến tinh thần, sức khỏe của chị M dẫn đến vợ chồng mất tình cảm, không thương yêu, quý trọng nhau nữa. Không thể sống được với chồng chị M đã bỏ về bên ngoại sống ly thân cắt đứt các quan hệ đối với anh T từ tháng 2 năm 2017 đến nay, từ ngày vợ chồng sống ly thân vợ chồng không liên lạc để níu kéo hôn nhân để mặc hậu quả xẩy ra, hai bên cũng không yêu cầu gia đình, ban xóm, chính quyền tổ chức hòa giải níu kéo hôn nhân. Chị Hồ Thị M xác định hôn nhân giữa chị và anh Phan Đình T đã đổ vỡ, không thể hàn gắn dù có hòa giải đến đâu thì vợ cũng thể đoàn tụ, mâu thuẫn đã kéo dài và trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được như mong muốn của các bên, Chị M đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh Phan Đình T.

- Về quan hệ con chung: Vợ chồng có con 01 con chung cháu Phan Ánh T(Giới tính: nữ), sinh ngày 01/4/2012. Từ ngày vợ chồng sống ly thân con chung được anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Bước đầu chị M đi lại thăm nom chăm sóc con chung thường xuyên, sau đó anh T và bà nội của cháu gây khó dễ nên chị M không đi lại thăm nom chăm sóc con chung nữa. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn đề nghị Tòa án giao con chung cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, chị M tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng cấp dưỡng nuôi con chung 700.000đ(Bảy trăm nghìn đồng).

- Về quan hệ tài sản: Chị Hồ Thị M không yêu cầu Tòa giải quyết.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án anh Phan Đình T không hợp tác, Tòa án không thu thập lời khai, ý kiến của anh để lưu tại hồ sơ vụ án. Nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do chị Hồ Thị M cung cấp, cũng như xác minh tình trạng hôn nhân, con chưa thành niên tại địa phương, trình bày của chị M nếu trong đơn khởi kiện, trình bày bản tự khai và trình bày tại phiên tòa thì về quan hệ hôn nhân, quan hệ con chung nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng cơ bản đúng như chị Hồ Thị M đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

-Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện qui định tại Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh chị Hồ Thị M và anh Phan Đình T yêu cầu anh, chị có mặt tại Tòa án để giải quyết, nhưng anh T không chấp hành, không hợp tác. Vì vậy,Tòa án đã lập biên bản theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự làm cơ sở để giải quyết vụ án.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử lần thứ nhất, Giấy triệu tập phiên tòa lần thứ nhất đối với các đương sự, tại phiên tòa lần thứ nhất nguyên đơn chị Hồ Thị M có mặt, bị đơn anh Phan Đình T vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Tòa án tiếp tục tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập phiên tòa lần thứ hai cho các đương sự. Tại phiên tòa lần thứ hai nguyên đơn có mặt, bị đơn anh Phan Đình T tiếp tục vắng mặt không có lý do, căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử, tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối bị đơn.

-Về nội dung:

+/ Về quan hệ hôn nhân: Điều kiện kết hôn, trình tự thủ tục tiến tới hôn nhân giữa chị Hồ Thị M và anh Phan Đình T đảm bảo đúng qui định của pháp luật, hôn nhân giữa chị M và anh T là hoàn tự nguyện, trước khi cưới anh chị đã đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Y được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 06/2011 ngày 01/11/2011 qua đó cho thấy hôn nhân giữa chị Hồ Thị M và anh Phan Đình T là hôn nhân hợp pháp.

Mâu thuẫn giữa vợ chồng chị M, anh T đã xẩy ra ngày càng trầm trọng và sâu sắc, nguyên nhân chủ yếu là do hai bên tìm hiểu nhau không kỷ, sau khi sống chung vợ chồng không tìm được sự hòa hợp trong hôn nhân, anh T có lối sống gia trưởng áp đặt, nên vợ chồng đã có những lời nói, xử sự hành động không đúng mực đối với nhau dẫn đến vợ chồng mất tình cảm, hôn nhân đổ vỡ. Vợ chồng đã sống ly thân hơn 2 năm, sau khi các bên sống ly thân vợ chồng đều không có ý thức níu kéo hôn nhân để đoàn tụ mà đã cắt đứt các quan hệ vợ chồng, không thương yêu quan tâm đến nhau nữa. Qua đó cho thấy hôn nhân giữa chị M, anh T đã thực sự đổ vỡ, tan rã không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nay chị Hồ Thị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phan Đình T là có căn cứ, cần xử chấp nhận yêu cầu của chị.

+/Về quan hệ con chung: Từ ngày vợ chồng sống ly thân con chung của vợ chồng cháu Phan Ánh T(Giới tính: nữ), sinh ngày 01/4/2012 được anh Phan Đình T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh đã nuôi, dạy con tốt thể hiện người bố có trách nhiệm cao đối với con chung, con chung có nguyện vọng được sinh sống trực tiếp với bố, nay chị M đề nghị giao con chung cho anh T được trực tiếp nuôi dưỡng là đúng, đảm bảo quyền lợi con chung của vợ chồng, nên cần chấp nhận về việc đề nghị giao nuôi con của chị Hồ Thị M.

-Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: chị Hồ Thị M tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Phan Đình T mỗi tháng 800.000đ(Tám trăm nghìn đồng) là tự nguyện, đúng pháp luật, nên cần chấp nhận sự tự nguyện về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của chị Hồ Thị M.

+/Về quan hệ tài sản: chị Hồ Thị M không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

+/ Về án phí: Buộc chị Hồ Thị M phải nộp án phí sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, 81; 82; 83;107và Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình.

Xử:

1.Về quan hệ tình cảm: chị Hồ Thị M được ly hôn anh Phan Đình T.

2.Về quan hệ con chung: Giao con chung cháu Phan Ánh T(Giới tính: nữ), sinh ngày 01/4/2012 cho anh Phan Đình T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến lúc con chung đủ tuổi trưởng thành.

Chị Hồ Thị M người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đi thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị Hồ Thị M về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung như sau:

Chị Hồ Thị M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Phan Đình T mỗi tháng 700.000đ(Bảy trăm nghìn đồng), thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng kể từ tháng 11/2019 cho đến lúc con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi suất theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian và số tiền còn phải thi hành án.

3.Về án phí: Áp dụng điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự: Điều 26: Điều 27 của nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

- Buộc: chị Hồ Thị M phải nộp 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn và 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con sơ thẩm. Nhưng được tính trừ 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí ly hôn chị đã nộp theo biên lai số: 0000099 ngày 12/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành - Nghệ An. Chị Hồ Thị M còn phải nộp 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt.

“Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thị hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự''.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:118/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về