Bản án 118/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN P, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 118/2017/HSST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 98/2017/HSST ngày 12 tháng 7 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. VŨ KHÁNH H; giới tính: nam; sinh năm: 1976; tại: Nha Trang; quốc tịch: Việt Nam; thường trú: Số 118, tổ 3, khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh D; chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ học vấn: 7/12; con ông: Vũ Ngọc L và bà: Nguyễn Thị Ngọc A; vợ: Hoàng Như Y, sinh năm 1990; con: Chưa có; tiền sự: không; tiền án: Ngày 21/01/2000 bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối Cao xử phạt 13 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; nhân thân: Ngày 06/10/2013 bị Ủy ban nhân dân phường 10, quận E xử phạt hành chính số tiền 2.250.000 đồng về các hành vi “Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 30/10/2013 bị Công an phường 9, quận E xử phạt hành chính số tiền 80.000 đồng về hành vi không xuất trình được Giấy chứng minh nhân dân; bị bắt tạm giữ ngày: 03/3/2017; bị tạm giam ngày: 12/3/2017 (có mặt).

2. NGUYỄN PHÚ L; giới tính: nam; sinh năm: 1992; tại: Tp. Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; thường trú: Số 40/6/5 đường A, phường 10, quận E, Tp. Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: Số 74/13, đường B, phường C, quận P, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; con ông:

Nguyễn Phú H và bà: Pang Mỹ Q; vợ; con: Chưa có; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giữ ngày: 03/3/2017; bị tạm giam ngày: 12/3/2017 (có mặt).

Người bị hại:

1. Ông Huỳnh Văn T, sinh năm: 1961; trú tại: Số 155H/2, đường D, phường 10, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

2. Anh Mạc Thiệu V, sinh năm: 1977; trú tại: Số 5, đường E phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

3. Anh Đỗ Quang S, sinh năm: 1989; trú tại: Số 781, đường E, phườngD, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Chu Thị M, sinh năm: 1961; trú tại: Số 66/19/27, đường C, phường 10, quận E, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

2. Anh Võ Quốc Đ, sinh năm: 1987; trú tại: Số 474/67, đường A, phường C, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

3. Anh Đào Thanh H, sinh năm: 1975; trú tại: Số 65A, đường E, phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

4. Chị Lê Thanh T, sinh năm: 1993; trú tại: Số 5A5 đường A, phườngD, quận B, tỉnh An Giang (vắng mặt)

5. Anh Nguyễn H, sinh năm: 1975; trú tại: Số 67/49, đường A, phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

6. Anh Lê Minh C, sinh năm: 1978; trú tại: Số 763/5/4/29, đường C, phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Khánh H và Nguyễn Phú L là bạn có quen biết nhau từ trước, do không có tiền tiêu xài nên rủ nhau tìm những nhà khóa cửa bên ngoài để mở khóa đột nhập vào bên trong lấy cắp tài sản, bọn chúng đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ 1:

Khoảng 00 giờ ngày 25/02/2017, Vũ Khánh H gọi điện thoại rủ Nguyễn Phú L đi trộm cắp tài sản, L đồng ý và điều khiển xe Yamaha Mio, màu xanh đen mang biển số 59P2-490.37 chở H chạy qua nhiều tuyến đường tìm tài sản để trộm cắp, khi đi ngang qua nhà số 8, đường A, phường B, quận P, H phát hiện cửa khóa ngoài nên kêu L dừng xe lại để H đi đến tiếp cận, dùng tuốt nơ vít cại bung ổ khóa đột nhập vào trong lấy: 03 đầu CPU máy vi tính, 02 màn hình máy vi tính rồi mang cất giấu ở góc nhà, H nói với L tài sản có giá trị không lớn, đi tìm nhà khác, L đồng ý, cả hai bỏ đi. Đến khoảng 06 giờ sáng cùng ngày Hòa thuê xe ôm quay lại số 8, đường A, phường B để lấy số tài sản đã trộm được mang đến bán cho anh Lê Quốc Đ với giá 1.500.000 đồng.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 152/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày28/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận P thì tổng trị giá của 03 đầu CPU và 02 màn hình máy vi tính tại thời điểm bị chiếm đoạt là 4.800.000 đồng.

Vụ thứ 2:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 25/02/2017, sau khi rời khỏi nhà số 8, đường A, phường B, quận P, L điều khiển xe Yamaha Mio, màu xanh đen mang biển số 59P2-490.37 chở Hòa đến dãy nhà trọ ở số 05, đường A, phường B, quận P thì dừng xe đứng ngoài cảnh giới, còn H đi vào dùng tuốt nơ vít cại bung ổ khóa cửa, đột nhập vào trong, sau đó, dùng kìm cắt dây kẽm cột bên ngoài các cửa phòng trọ, khi đi đến cuối hành lang, H phát hiện 01 xe Honda Wave mang biển số 54P8-2722, chìa khóa cắm sẵn trên xe, trong cốp xe có 01 cây kìm bấm dây điện và 01 thước cuộn, H lén đến dẫn xe ra ngoài nổ máy tẩu thoát, L bên ngoài điều khiển xe đi cùng H đến đường A, phường 1, quận H, bán cho một đối tượng tên T (chưa rõ lai lịch) với giá 3.600.000 đồng, H chia cho L 1.800.000 đồng, số tiền còn lại H giữ để tiêu xài.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 152/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 28/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận P thì chiếc xe Honda Wave mang biển số 54P8-2722 mà các bị cáo chiếm đoạt có trị giá 8.000.000 đồng.

Vụ thứ 3:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 28/02/2017, H rủ L đi trộm cắp tài sản, L đồng ý và điều khiển xe Classico màu kem (không rõ biển số, H mượn của T không rõ lai lịch) chở H đi tìm tài sản để trộm cắp.

Đến khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi ngang qua nhà số 781, đường S, phường C, quận P, H phát hiện cửa ngoài khóa nên kêu L quay xe lại đứng ngoài cảnh giới còn H dùng tuốt nơ vít mang theo sẵn, phá ổ khóa cửa ngoài đột nhập vào nhà phát hiện xe Honda Airblade màu đỏ-đen mang biển số 76F1-124.37 của anh Đỗ Quang S dựng trong nhà, chìa khóa cắm sẵn trên xe, bên trong cốp xe có một số bằng cấp mang tên Lê Thanh T, H liền lấy trộm đẩy ra ngoài tẩu thoát cùng L mang đến tiệm cầm đồ của anh Đào Thanh H cầm với giá 8.000.000 đồng, H chia cho L 3.000.000 đồng, số tiền còn lại H giữ để tiêu xài.

Đến khoảng 22 giờ 00 phút cùng ngày, H mượn 01 xe Honda Airblade màu đỏ-đen mang biển số 55P6-0738 của anh Nguyễn H; sinh năm: 1975; trú tại: 67/49 đường A, phường B, quận P, một mình mang đến tiệm bắn cá, kêu H cho đổi lại xe Honda Airblade màu đỏ-đen mang biển số 76F1-124.37, H đồng ý cho đổi. Sau đó, H mang xe Honda Airblade màu đỏ-đen mang biển số 76F1-124.37 bán cho T với giá 8.000.000 đồng, lấy tiền tiêu xài.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 152/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 28/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận P thì chiếc xe Honda Airblade màu đỏ-đen mang biển số 76F1- 124.37 có trị giá 35.000.000 đồng.

Trong khoảng thời gian từ ngày 25/02/2017 đến ngày 28/02/2017 Vũ Khánh H và Nguyễn Phú L đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản với tổng trị giá là 47.000.000 đồng

Tại bản cáo trạng số 104/CT - VKS ngày 10 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận P truy tố các bị cáo Vũ Khánh H, Nguyễn Phú L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên; các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại Cơ quan điều tra và trong phiên tòa xét hỏi hôm nay các bị cáo Vũ Khánh H, Nguyễn Phú L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nói trên, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ có đủ cơ sở tuyên bố các bị cáo Vũ Khánh H, Nguyễn Phú L phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm hại trực tiếp đến tài sản hợp pháp của công dân mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội, do đã có sẵn ý định phạm tội từ trước, H và L thường xuyên mở khóa đột nhập vào những căn nhà khóa cửa đi vắng vào ban đêm để lấy cắp tài sản sau đó mang đi bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, hành vi được lập đi lập lại nhiều lần trong một khoảng thời gian ngắn, phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Bản thân bị cáo H là người có nhân thân xấu, năm 2013 bị Ủy ban nhân dân phường 10, quận E xử phạt hành chính số tiền 2.250.000 đồng về các hành vi “Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 21/01/2000 bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối Cao xử phạt 13 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nay lại phạm tội “Trộm cắp tài sản” hành vi tái phạm là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nghĩ cần thiết phải có mức án tù có thời hạn mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên ở các bị cáo cũng có phần lưu ý đến thái độ khai báo thành khẩn trước Tòa đã ăn năn hối cải, nên có xem xét giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay qua bản luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm truy tố các bị cáo Vũ Khánh H, Nguyễn Phú L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Vũ Khánh H với mức án tù từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, bị cáo Nguyễn Phú L với mức án tù từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt trong vụ án thứ 1 tại nhà số 8, đường A, phường B, quận P là 03 đầu CPU máy vi tính và 02 màn hình máy vi tính, Công an đã thu hồi trả lại cho người bị hại là anh Huỳnh Văn T, anh T đã nhận lại, không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì. Do phần dân sự đã giải quyết nên Tòa không đề cập.

Đối với chiếc xe Yamaha Mio, màu xanh đen mang biển số 59P2-490.37, đây là xe máy Nguyễn Phú L dùng làm phương tiện phạm tội. Trên cơ sở kết quả điều tra được xác định như sau: Xe trên do bà Chu Thị M đứng tên sở hữu hợp pháp. Ngày 25/02/2017 bà M cho con gái là chị Nguyễn Hoàng Bảo N mượn sử dụng, sau đó chị N cho bạn trai là Nguyễn Phú L mượn, việc L sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, bà M và chị N không biết nên Cơ quan điều tra có Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe trên cho bà M, Tòa không đề cập xử lý.

Đối với anh Võ Quốc Đ là người mua 03 đầu CPU máy vi tính và 02 màn hình máy vi tính, anh Đ không biết đây là tài sản do phạm tội mà có, anh Đ đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra và không yêu cầu bồi thường gì do đó Cơ quan điều tra không đưa vào tố tụng xử lý. Tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt trong vụ án thứ 2 tại dãy nhà trọ ở số 05, đường A, phường B, quận P là chiếc xe Honda Wave mang biển số 54P8-2722 của anh Mạc Thiệu V, hai bị cáo mang bán không thu hồi được, tại Cơ quan điều tra, anh V yêu cầu bồi thường 10.000.000 đồng, xét thấy yêu cầu của anh V là thỏa đáng, nghĩ nên buộc hai bị cáo H, L phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 10.000.000 đồng, cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường cho anh V là 5.000.000 đồng.

Đối với chiếc xe Yamaha Mio, màu xanh đen mang biển số 59P2-490.37 đã đề cặp xử lý ở vụ thứ 1 nên Tòa không xét.

Đối với tên T là người mua xe Honda Wave mang biển số 54P8-2722 mà hai bị cáo H và L mang bán, do không xác định được lai lịch nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với 01 kìm điện có cán màu xanh, 01 cây thước xếp hiệu Pro Tape dài 5m (thu giữ tại nơi ở của H) là tài sản để trong cốp xe Honda Wave mang biển số 54P8-2722 của anh V theo Kết luận định giá tài sản số 152/KL- HĐĐGTS-TTHS ngày 28/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận P thì 01 kìm điện có cán màu xanh, 01 cây thước xếp hiệu Pro Tape dài 5m có trị giá 60.000 đồng, các vật trên đã cũ, anh V không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy theo điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt trong vụ án thứ 3 là chiếc xe Honda Airblade màu đỏ-đen mang biển số 76F1-124.37 bị cáo mang bán cho tên T (không rõ lai lịch), không thu hồi được. Tại Cơ quan điều tra, anh Đỗ Quang S yêu cầu bồi thường 30.000.000 đồng, xét thấy yêu cầu của anh S là thỏa đáng nghĩ nên chấp nhận buộc hai bị cáo H, L phải có trách nhiệm bồi thường số tiền nói trên, cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường cho anh S là 15.000.000 đồng.

Đối với 02 bản sao giấy chứng nhận hoàn tất khóa học làm sổ sách kế toán, 01 bản sao chứng chỉ tin học trình độ A, 01 bản gốc bằng tốt nghiệp cao đẳng trường Đại học Văn Hiến của chị Lê Thanh T, Công an thu tại nơi ở của bị cáo H đã được trả lại cho chị T, chị T đã nhận lại không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì nên Tòa không đề cập.

Đối với anh Đào Thanh H là người nhận cầm cố chiếc xe Honda Airblade màu đỏ-đen mang biển số 76F1-124.37 mà H, L mang cầm, anh H không biết đây là tài sản do phạm tội mà có, anh H đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra và không yêu cầu bồi thường gì do đó Cơ quan điều tra không đưa vào tố tụng xử lý.

Đối với anh Nguyễn H là người cho H mượn chiếc xe Honda Airblademàu đỏ-đen mang biển số 55P6-0738, anh H cư ngụ tại số 67/49, đường A,phường C, quận P,  Thành phố Hồ Chí Minh đã bỏ địa phương đi từ năm 2011 nên Cơ quan điều tra không có cơ sở làm rõ để xử lý. Qua xác minh được biết biển số 55P6-0738 của chiếc xe Honda Airblade màu đỏ-đen là biển số giả, biển số thật của xe trên là 59D2 140.67 do anh Lê Minh C, sinh năm: 1978; trú tại: 763/5/4/29, đường C, phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên sở hữu, anh C bị mất trộm xe vào năm 2016 tại quận K, do đó Công an quận P đã trả lại xe trên cho anh C, anh C đã nhận lại không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì nên Tòa không đề cập.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra Cơ quan Công an còn thu giữ một số vật chứng như sau:

- 01 kìm điện có cán màu xanh, 01 cây thước xếp hiệu Pro Tape dài 5m

- Ba thanh kim loại hình lục giác dài khoảng 6cm-8cm, hai thanh kim loại có đầu dẹp dài khoảng 20cm + thanh kim loại hình chữ L dài 20cm.

- 01 cây búa cán gỗ dài khoảng 40cm, cây búa cán bằng kim loại dài khoảng 23cm, hai tuốt nơ vít dài khoảng 20cm, cây mỏ lết dài 15cm, cây kìm đầu dẹp dài 20cm, hai cây dũa dài 20cm +30cm

- Máy khoan màu vàng hiệu Masster dài khoảng 26cm, rộng 17cm

- Máy mài hiệu Bosch dài khoảng 25cm

- Một đôi bao tay màu đen, hai khẩu trang bằng vải màu xanh và đen

- Áo sơ mi trắng tay dài, quần Jean dài màu nâu, nón lưỡi trai màu nâu

- Một biển số xe 75K5-5060

- Một ổ khóa xe bị hư, bảy ổ khóa các loại đã bị hư

- Một tay cầm + ổ khóa cửa két sắt đã bị hư

- Tấm bạt màu đen bằng simili kích thước khoảng 1.2m x 1.2m

- Hai cái ba lô, hai cái túi xách đựng Laptop, đôi dép cao su

- Một cục phát Wifi hiệu TP-Link AV500

- 01 miếng vải màu xanh bề ngang 3cm dài 1m7

- 01 ổ khóa hiệu Zsolex, Top security Lock U.S.D

- 01 ổ khóa hiệu Foloy Top security

- 01 cái nón bảo hiểm màu xanh dương bên ngoài có dán chữ Mobifone

- 01 bộ ổ khóa cửa hiệu Zsolex, màu bạc, bằng kim loại

- 02 sợi dây kim loại dài khoảng 20cm, đã bị bẻ cong, một ổ khóa hiệu Forus

- 01 ổ khóa bằng sắt màu trắng có chữ Extra Plus Top security có cắm chìa khóa sẵn

Tất cả không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại Nokia 1202 màu đen, số Imei: 355244039060913 (thu giữ của L), 01 điện thoại di động hiệu Nokia trắng hồng model 2610 imei: 358982011013080 và 01 điện thoại di đông hiệu Mobell model M168 màu đen imei: 801685091211556 (thu giữ của H), các bị cáo khai sử dụng điện thoại để liên lạc rủ nhau đi trộm cắp tài sản nên nghĩ nên tịch thu sung quỹ Nhà nước theo điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 máy tính bảng hiệu Samsung màu trắng số imei: 357359050154789 thu giữ của bị cáo sẽ được tịch thu sung quỹ Nhà nước theo điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Vũ Khánh H, Nguyễn Phú L phạm tội “Trộm cắp tài sản”

1/ Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Vũ Khánh H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù

Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 3 năm 2017.

2/ Ap dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Phú L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù

Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 3 năm 2017. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 584, 586, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc các bị cáo Vũ Khánh H và Nguyễn Phú L có trách nhiệm bồi thường cho anh Mạc Thiệu V, sinh năm: 1977; trú tại: Số 5, đường E phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng, cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường cho anh V 5.000.000 (năm triệu) đồng

Buộc các bị cáo Vũ Khánh H và Nguyễn Phú L có trách nhiệm bồi thường cho anh Đỗ Quang S, sinh năm: 1989; trú tại: Số 781, đường E, phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng, cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường cho anh S 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

- 01 kìm điện có cán màu xanh, 01 cây thước xếp hiệu Pro Tape dài 5m

- Ba thanh kim loại hình lục giác dài khoảng 6cm-8cm, hai thanh kim loại có đầu dẹp dài khoảng 20cm + thanh kim loại hình chữ L dài 20cm.

- 01 cây búa cán gỗ dài khoảng 40cm, cây búa cán bằng kim loại dài khoảng 23cm, hai tuốt nơ vít dài khoảng 20cm, cây mỏ lết dài 15cm, cây kìm đầu dẹp dài 20cm, hai cây dũa dài 20cm +30cm

- Máy khoan màu vàng hiệu Masster dài khoảng 26cm, rộng 17cm

- Máy mài hiệu Bosch dài khoảng 25cm

- Một đôi bao tay màu đen, hai khẩu trang bằng vải màu xanh và đen

- Áo sơ mi trắng tay dài, quần Jean dài màu nâu, nón lưỡi trai màu nâu

- Một biển số xe 75K5-5060

- Một ổ khóa xe bị hư, bảy ổ khóa các loại đã bị hư

- Một tay cầm + ổ khóa cửa két sắt đã bị hư

- Tấm bạt màu đen bằng simili kích thước khoảng 1.2m x 1.2m

- Hai cái ba lô, hai cái túi xách đựng Laptop, đôi dép cao su

- Một cục phát Wifi hiệu TP-Link AV500

- 01 miếng vải màu xanh bề ngang 3cm dài 1m7

- 01 ổ khóa hiệu Zsolex, Top security Lock U.S.D

- 01 ổ khóa hiệu Foloy Top security

- 01 cái nón bảo hiểm màu xanh dương bên ngoài có dán chữ Mobifone

- 01 bộ ổ khóa cửa hiệu Zsolex, màu bạc, bằng kim loại

- 02 sợi dây kim loại dài khoảng 20cm, đã bị bẻ cong, một ổ khóa hiệu Forus

- 01 ổ khóa bằng sắt màu trắng có chữ Extra Plus Top security có cắm chìa khóa sẵn

Ap dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước:

- 01 điện thoại Nokia 1202 màu đen, số Imei: 355244039060913

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia trắng hồng model 2610 imei: 358982011013080

- 01 điện thoại di đông hiệu Mobell model M168 màu đen imei: 801685091211556

- 01 máy tính bảng hiệu Samsung màu trắng số imei: 357359050154789 (Theo phiếu nhập kho vật chứng số 127/PNK ngày 15/3/2017 và phiếu nhập kho vật chứng số 239/PNK ngày 05/7/2017 của Công an quận Tân Phú).

Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc mỗi bị cáo nộp 1.000.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm

Áp dụng Điều 98, Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 22 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ QuốcHội.

Buộc mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Riêng người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền bồi thường nếu người phải thi hành án không thi hành các khoản bồi thường thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:118/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về