Bản án 118/2017/HSST ngày 10/11/2017 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 118/2017/HSST NGÀY 10/11/2017 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10/11/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 124/2017/TLST-HS ngày 13/9/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Hải Đ1; tên gọi khác: không; sinh ngày 27 tháng 7 năm 1980 tại thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT: Khối 4, thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; trú tại: khối 13, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo : không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình Khoát, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị Thương, sinh năm 1960; có vợ: Phạm Thị Hương Giang và có 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An từ ngày 21/6/2017 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị H; sinh năm 1963; trú tại: khối Trung Đông, phường Hưng Dũng, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Anh Tuân; sinh năm 1988; trú tại: tổ dân phố 11, thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Hải Đ1 bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do có mối quan hệ anh em họ hàng với chị Lê Viết Kim Ngân nên khoảng 14 giờ ngày 02/4/2017, Nguyễn Hải Đ1 gọi điện cho chị Lê Viết Kim Ngân sinh năm 1991 trú tại số nhà 216 đường Nguyễn Sỹ Sách, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hỏi: “Có chiếc xe ô tô nào không cho Đ1 mượn hai ngày để đi công việc”, chị Ngân nói: “Để cháu hỏi mẹ xem sao” rồi chị Ngân điện thoại cho mẹ chồng là bà Nguyễn Thị H1 nói: “Chú Đ1 mượn xe đi hai ngày mẹ có cho mượn hay không”. Bà H1 trả lời: “Có chiếc xe VIOS ở nhà đó con cho chú mượn” Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, Đ1 đến nhà chị Ngân để mượn xe, chị Ngân giao cho Đ1 chiếc xe ô tô có đặc điểm: Nhãn hiệu TOYOTA loại xe VIOS sơn màu nâu vàng biển kiểm soát 37A- 327.72. Quá trình mượn xe hai bên không làm giấy tờ. Hết thời hạn hai ngày, bà Hạnh không thấy Đ1 đưa xe đến trả nên đã điện thoại cho Đ1 để hỏi nhưng điện thoại không liên lạc được, đến nhà Đ1 thì gia đình Đ1 cho biết Đ1 đi khỏi nhà từ ngày 02/4/2017, gia đình không biết Đ1 đi đâu, làm gì. Thông qua thiết bị định vị gắn trên xe, bà Hạnh phát hiện xe đậu tại thị trấn Xuân An, tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 03/4/2017. Qua tìm hiểu được biết Đ1 đã cầm cố chiếc xe ô tô đó cho một người ở thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh nên bà H1 đã làm đơn tố cáo Nguyễn Hải Đ1 về hành vi chiếm đoạt tài sản.

Ngày 08/4/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Nghệ An đã tiến hành xác minh tin tố giác tội phạm và ra thông báo truy tìm vật chứng. Chiều cùng ngày anh Nguyễn Anh Tuân sinh năm 1988, trú quán tại khối 11, thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã đến cơ quan điều tra giao nộp cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An chiếc xe ô tô nói trên cùng một giấy vay tiền do Nguyễn Hải Đ1 viết; một giấy phép lái xe; một chứng minh thư mang tên Nguyễn Hải Đ1. Anh Nguyễn Anh Tuân khai: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 02/4/2017, Nguyễn Hải Đ1 đi cùng với một người bạn đến nhà Tuân hỏi vay 50.000.0000 đồng và để lại chiếc xe VIOS màu nâu vàng, biển kiểm soát 37A-327.72 để làm tin rồi viết giấy vay tiền , Đ1 hẹn 5 ngày sau trả tiền và lấy xe ra, do có mối quan hệ quen biết nhau từ trước nên anh Tuân đồng ý và đưa tiền cho Đ1. Đến sáng ngày 03/4/2017, Đ1 tiếp tục đến nhà anh Tuân nói với anh Tuân vay thêm 60.000.000 đồng để đi giải quyết công việc , rồi viết thêm vào giấy vay tiền , anh Tuân đồng ý đưa tiền cho Đ1. Đến buổi chiều cùng ngày Đ1 tiếp tục đến nhà anh Tuân hỏi vay thêm 40.000.0000 đồng anh Tuân cũng đồng ý đưa tiền cho Đ1. Tổng số tiền anh Tuân cho Đ1 vay với việc cầm cố xe ô tô là 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu) đồng.

Ngày 14/6/2017, Nguyễn Hải Đ1 đến cơ quan điều tra khai nhận: Mục đích mượn xe của bà Hạnh là để đi Đà Nẵng chơi nhưng do không có tiền nên Đ1 đã nảy sinh ý định cầm cố chiếc xe của bà Hạnh để lấy tiền đánh bạc qua mạng với hình thức đánh games. Sau khi cầm cố chiếc xe cho anh Tuân, Nguyễn Hải Đ1 đã đánh bạc thua hết 110.000.0000 đồng. Đ1 vay anh Tuân thêm 40.000.000 đồng rồi bỏ trốn và đã chi tiêu hết số tiền đó.

Tại kết luận định giá tài sản ngày 11/5/2017 của Hội đồng định giá Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An kết luận : 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA loại VIOS , số khung: 9F35G5001362; số máy: 2NRX055151, biển kiểm soát : 37A-327.72, màu sơn: vàng, sản xuất năm 2016 (xe đã qua sử dụng) có mức giá 580.000.000 (năm trăm tám mươi triệu) đồng.

Tại kết luận giám định số 238/KL-PC54 (GĐKTHSTT) ngày 03/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An kết luận Chữ viết, chữ ký trên “Giấy vay tiền” đề ngày 02 và 03/4/2017 mang tên Nguyễn Hải Đ1 ký hiệu A với chữ viết, chữ ký của Nguyễn Hải Đ1 trên 04 (bốn) tài liệu mẫu so sánh gồm : 02 (hai) “Bản tự khai” của Nguyễn Hải Đ1 đề ngày 14/6/2017, 22/6/2017 ký hiệu M1, M2; 01 (một) “đơn xin xác nhận hạnh kiểm không tiền án, tiền sự” của Nguyễn Hải Đ1 đề ngày 03/3/2017 ký hiệu M3; 01 (một) “Giấy khám sức khỏe” không đề ngày tháng năm ký hiệu M4 do cùng một người viết, ký ra.

Với nội dung trên, Bản cáo trạng số 128/VKS-P2 ngày 07 tháng 9 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hải Đ1 về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử; Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải Đ1 từ 8 (tám) năm tù đến 9 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21 tháng 6 năm 2017. Về trách nhiệm dân sự và án phí giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Hải Đ1 không tranh luận với luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

Người bị hại bà Nguyễn Thị H1 có đơn xin xét xử vắng mặt và trình bày: đã nhận lại xe ô tô, không yêu cầu bị cáo bồi thường. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi liên quan đến vụ án anh Nguyễn Anh Tuân yêu cầu bị cáo Đ1 trả lại số tiền 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu) đồng, gia đình bị cáo đã trả 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng. Nay anh Tuân yêu cầu Đ1 trả tiếp số tiền còn lại là 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) đồng.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa , bị cáo Nguyễn Hải Đ1 khai và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại , người có quyền lợi liên quan đến vụ án, người làm chứng, vật chứng thu giữ, biên bản định giá tài sản, biên bản giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố, thẩm tra, tranh tụng công khai tại phiên tòa. Đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Do có mối quan hệ anh em, họ hàng với chị Lê Viết Kim Ngân nên vào ngày 02/4/2017, bị cáo Nguyễn Hải Đ1 đã mượn xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA , loại xe VIOS, biển kiểm soát 37A-327.72 của bà Nguyễn Thị Hạnh đi chơi nhưng sau đó đã đưa xe ô tô đi cầm cố tại hiệu cầm đồ của anh Nguyễn Anh Tuân để vay 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu) đồng để đánh bạc và tiêu xài cá nhân rồi bỏ trốn.

Căn cứ vào kết luận định giá tài sản ngày 11/5/2017 của Hội đồng định giá Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An kết luận: 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA loại VIOS, số khung: 9F35G5001362; số máy : 2NRX055151, biển kiểm soát : 37A- 327.72, màu sơn: vàng, sản xuất năm 2016 (xe đã qua sử dụng) có mức giá 580.000.000 (năm trăm tám mươi triệu) đồng.

Căn cứ kết luận giám định số 238/KL-PC54(GĐKTHSTT) ngày 03/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An kết luận : Chữ viết, chữ ký trên “Giấy vay tiền” đề ngày 02 và 03/4/2017 mang tên Nguyễn Hải Đ1 ký hiệu A với chữ viết, chữ ký của Nguyễn Hải Đ1 trên 04 (bốn) tài liệu mẫu so sánh gồm : 02 (hai) “Bản tự khai” của Nguyễn Hải Đ1 đề ngày 14/6/2017, 22/6/2017 ký hiệu M1, M2; 01 (một) “đơn xin xác nhận hạnh kiểm không tiền án, tiền sự” của Nguyễn Hải Đ1 đề ngày 03/3/2017 ký hiệu M3; 01 (một) “Giấy khám sức khỏe” không đề ngày tháng năm ký hiệu M4 do cùng một người viết, ký ra.

Như vậy, hành vi của bị cáo Đ1 là hành vi lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản của bà Hạnh đưa đi cầm cố lấy tiền đánh bạc và tiêu xài cá nhân dẫn đến không thể chuộc lại xe ô tô để trả cho bà Hạnh nên đã bỏ trốn. Hành vi do bị cáo Đ1 thực hiện đã vi phạm vào điểm a khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bà Hạnh, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Tài sản bị cáo chiếm đoạt là 580 triệu đồng thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn có tiền để đánh bạc và tiêu xài cá nhân nên bị cáo đã lợi dụng vào lòng tin của bà Hạnh để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Do vậy, phải áp dụng hình phạt nghiêm minh phù hợp tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Xét về nhân thân: Thấy từ trước đến ngày phạm tội bị cáo là công dân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Xét về tình tiết giảm nhẹ : Thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã nhờ gia đình khắc phục một phần hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thú nên cần áp dụng các điểm p, b khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, kết hợp với việc xem xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; thấy bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng nên cần áp dụng thêm Điều 47 Bộ luật hình sự để quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định. Tuy nhiên việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 140 của Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân tốt, hoàn cảnh kinh tế khó khăn và đang phải trả cho anh Nguyễn Anh Tuân 120 triệu đồng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe VIOS của bà Hạnh đã được cơ quan điều tra thu hồi trả lại cho bà Hạnh, bà Hạnh không yêu cầu gì nên miễn xét. Đối với số tiền mà bị cáo vay của anh Nguyễn Anh Tuân đã được gia đình bị cáo trả lại cho anh Tuân 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng. Tại phiên tòa, anh Tuân yêu cầu Đ1 phải trả số tiền còn lại là 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) đồng và bị cáo Đ1 chấp nhận. Xét thấy, cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ của anh Tuân có đủ điều kiện để hoạt động và việc thỏa thuận giữa các bên là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Trong hồ sơ vụ án Nguyễn Hải Đ1 còn khai cầm cố chiếc xe ô tô VIOS để vay số tiền 110.000.000 (một trăm mười triệu) đồng đánh bạc qua mạng với hình thức đánh game. Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ hành vi đánh bạc của Đ1 khi nào có căn cứ sẽ xử lý.

Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với một số mẫu giấy tờ giám định đã lưu vào hồ sơ vụ án

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải Đ1 phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 140, điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Hải Đ1 8 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 21/6/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự, Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Hải Đ1 và người có quyền lợi liên quan đến vụ án như sau:

Bị cáo Nguyễn Hải Đ1 phải trả lại cho anh Nguyễn Anh Tuân 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu) đồng đã trả trước 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng còn phải trả tiếp 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chậm thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hải Đ1 phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 6.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo lên TAND cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2017/HSST ngày 10/11/2017 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:118/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về