Bản án 1180/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1180/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 11 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 478/2018/TLST- HNGĐ ngày 08/5/2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 344/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị Bích N, sinh năm: 1985 - (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: 177/10 đường G, khu phố B, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Trọng B, sinh năm: 1983 -vắng mặt.

Địa chỉ: 177/10 đường G, khu phố B, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 (1) Nguyên đơn bà Phan Thị Bích N trình bày: Bà N và ông Nguyễn Trọng B tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2008, do hai bên tự tìm hiểu, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tam Bình, quận Thủ Đức, theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 94, quyển số 01 cấp ngày 25/7/2008. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chính giữa hai vợ chồng là do ông Nguyễn Trọng B thường xuyên nhậu nhẹt, không lo làm ăn, chăm lo cuộc sống gia đình, không có nghề nghiệp nhưng nghiện ma túy. Vợ chồng thường xuyên cãi nhau, ông B thường xuyên đánh bà N và có xu hướng bạo hành gia đình vì vậy tháng 10 năm 2017 bà N cùng 02 con về nhà mẹ ruột ở phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức ở cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, đời sống chung mâu thuẫn trầm trọng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Nguyễn Trọng B để ổn định cuộc sống.

Giữa bà N và ông Nguyễn Trọng B có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 15/02/2011 và Nguyễn Ngọc Bảo N, sinh ngày 14/12/2015, bà Phan Thị Bích N yêu cầu sau khi ly hôn được quyền nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu ông Nguyễn Trọng B cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung bà N tự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Trọng B vắng mặt không có lý do khi được Tòa án triệu tập lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất.

 (2) Tại phiên tòa hôm nay: Ông Nguyễn Trọng B tiếp tục vắng mà không có lý do. Nguyên đơn bà Phan Thị Bích N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như trên.

 (3) Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Tòa án đã tiến hành tố tụng từ khi thụ lý cho đến mở phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn ông Nguyễn Trọng B đã vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai mà không có lý do chính đáng hoặc sự kiện bất khả kháng nên đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn bà Phan Thị Bích N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề nghị Tòa án chấp nhận. Về nội dung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và hợp pháp, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Bà Phan Thị Bích N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Trọng B là tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại thời điểm Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ kiện, bị đơn ông Nguyễn Trọng B đang cư trú trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

 [2] Nguyên đơn bà Phan Thị Bích N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn ông Nguyễn Trọng B vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, Hội đồng xét xử áp dụng điểm a và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. [3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 94, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân phường Tam Bình, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 25/7/2008 có cơ sở xác định giữa bà Phan Thị Bích N và ông Nguyễn Trọng B có quan hệ hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào văn bản số 961/LĐTB ngày 21/8/2018 của Phòng lao động thương binh và Xã hội quận Thủ Đức về việc phúc đáp xác minh tình trạng hôn nhân và gia đình phù hợp với lời lời khai của nguyên đơn về nguyên nhân mâu thuẫn chính giữa bà N và ông Nguyễn Trọng B. Toàn bộ lời khai của bà N cũng như tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được công khai trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cư, đã được thông báo cho ông Nguyễn Trọng B, thế nhưng ông B không có ý kiến phản hồi cũng không phản đối. Do vậy, có cơ sở xác định nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn chính giữa hai bên là do ông B không có nghề nghiệp ổn định, lười lao động, thường xuyên tụ tập ăn nhậu, hút chích dẫn đến nghiện ma túy, không lo làm ăn để xây dựng hạnh phúc gia đình và có xu hướng bạo hành gia đình. Xét thấy, đây là trường hợp vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho đời sống hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên năm 2017 bà N đã chủ động sống ly thân, mục đích hôn nhân giữa hai bên không đạt được. Tình trạng hôn nhân giữa bà Phan Thị Bích N và ông Nguyễn Trọng B thuộc trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014.

 [3.2] Về con chung: Căn cứ vào các giấy khai sinh số 38/2011, quyển số 01/2011 ngày 22/02/2011 và giấy khai sinh số 364/2015, quyển số 02/2015 ngày 25/12/2015 đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường Tam Bình, quận Thủ Đức. Có sơ sở xác định bà Phan Thị Bích N và ông Nguyễn Trọng B có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 15/02/2011 và Nguyễn Ngọc Bảo N, sinh ngày 14/12/2015. Xét thấy, yêu cầu của bà N được quyền nuôi dưỡng cả hai con chung sau khi ly hôn là phù hợp với nguyện vọng của các con và phù hợp với tình trạng thực tế được xác nhận tại văn bản số 961/LĐTB ngày 21/8/2018 của Phòng lao động thương binh và Xã hội quận Thủ Đức, xác định hiện tại hai con do bà N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, bà N có công việc và thu nhập ổn định đảm bảo điều kiện để nuôi dạy hai con. Do vậy yêu cầu nuôi con của bà N có cơ sở chấp nhận.

 [3.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà N về việc không yêu cầu ông Nguyễn Trọng B cấp dưỡng nuôi con.

 [3.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phan Thị Bích N tự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm nguyên đơn bà Phan Thị Bích N phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 186, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273, Điều 280, Điều 482 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 54, Điều 55, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Bích N được ly hôn với ông Nguyễn Trọng B.

- Về con chung: Giao hai con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 15/02/2011 và Nguyễn Ngọc Bảo N, sinh ngày 14/12/2015 cho bà Phan Thị Bích N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Không bên nào được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án để thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Phan Thị Bích N về việc không yêu cầu ông Nguyễn Trọng B cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phan Thị Bích N tự xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 (ba trăm nghìn) đồng buộc bà Phan Thị Bích N phải nộp theo quy định, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà N đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0038751 ngày 08/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Phan Thị Bích N đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Phan Thị Bích N và ông Nguyễn Trọng B vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1180/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về ly hôn

Số hiệu:1180/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về