Bản án 1178/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1178/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hổ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 448/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2018 về “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 64/2018/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1977; cư trú tại: 16 MC, Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Trung N, sinh năm 1977; cư trú tại: 181/1 MC, Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

 (Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 24/4/2018 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn – bà Lê Thị T trình bày: Bà và ông Huỳnh Trung N chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 01/4/1999. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc. Đến năm 2009, vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, mặc dù hai bên gia đình hòa giải hàn gắn nhưng không thành và vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm nên bà T đề nghị Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông N.

Về con chung: Bà và ông N có 03 con chung tên Huỳnh Thị Yến N, sinh ngày 23/02/1999; Huỳnh Thị Yến H, sinh ngày 12/02/2000 (hai con đã thành niên) và Huỳnh Trọng P, sinh ngày 14/9/2003, các con hiện đang sống cùng với bà T. Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Huỳnh Trọng P, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn đến Tòa án để tự khai, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng ông N không đến Tòa án theo giấy triệu tập và cũng không có bất kỳ văn bản nào phản hồi yêu cầu khởi kiện của bà T nên Tòa án không thể thu thập được lời khai của ông N.

Tại phiên tòa,

Nguyên đơn - bà Lê Thị T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa

Bị đơn – ông Huỳnh Trung N vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8 phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật. Riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Lê Thị T và ông Huỳnh Trung N có đăng ký kết hôn, bà T yêu cầu ly hôn với ông N, xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về “tranh chấp ly hôn”.

Hiện nay, bị đơn là ông Huỳnh Trung N đang cư trú tại Quận 8 (Theo kết quả xác minh của Công an Phường P, Quận H) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

 [2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn bà Lê Thị T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt bà T.

Bị đơn ông Huỳnh Trung N, Tòa án đã triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng ông N vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt ông N.

 [3] Về yêu cầu của các đương sự:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 42, Quyển số 01/99 do Ủy ban nhân dân Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/4/1999, cùng lời khai của bà T về việc các đương sự tự nguyện kết hôn với nhau, nên đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa bà T và ông N là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà T: Trong quá trình chung sống, bà T và ông N xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông N không quan tâm chăm sóc vợ con và vợ chồng sống ly thân từ năm 2009 đến nay. Hơn nữa, theo lời khai của Huỳnh Thị Yến P sinh năm 2000 (là con ruột của bà T và ông N) thì trong thời gian chung sống bà T và ông N thường xuyên cãi vã, khi bà T phát hiện bị bệnh ung thư thì ông N không quan tâm chăm sóc vợ, còn có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Bà T xác định vợ chồng không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân với ông N.

Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân chỉ đạt được mục đích trên cơ sở yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ các công việc trong gia đình, đồng thời vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau. Bà T và ông N đã không tôn trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, Tòa án đã triệu tập ông N đến Tòa để trình bày ý kiến tự khai, tổ chức phiên hòa giải để các bên có điều kiện hàn gắn đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án ông N không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án mà không có lý do chính đáng. Điều này cho thấy ông N đã từ bỏ quyền lợi của mình, không muốn hòa giải hàn gắn đoàn tụ gia đình. Do đó, việc chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Bà T và ông N có 03 con chung tên Huỳnh Thị Yến N, sinh ngày 23/02/1999 và Huỳnh Thị Yến H, sinh ngày 12/02/2000 (đã thành niên); Huỳnh Trọng P, sinh ngày 14/9/2003. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Trọng P vì trẻ P hiện đang số cùng bà. Bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Theo xác minh của Công an Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh thì ông N đi làm ăn xa nên điều kiện chăm sóc con không tốt, trẻ P vẫn sống cùng mẹ từ khi ông N và bà T sống ly thân (từ năm 2009) đến nay và trẻ cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống cùng mẹ. Hơn nữa, trong suốt quá trình tố tụng ông N không có bất kỳ ý kiến nào phản hồi về yêu cầu nuôi con của bà T. Do đó, việc giao trẻ P cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở, phù hợp với quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. 

Bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định bà và ông N không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

 [4] Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà T phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều83, Điều 84 của Luật Hôn nhân  và gia đình năm 2014;

- Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T về việc xin ly hôn với ông Huỳnh Trung N.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Huỳnh Trung N. (Giấy chứng nhận kết hôn số 42, Quyển số 01/99 do Ủy ban nhân dân Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/4/1999).

- Về con chung: Có 03 con chung tên Huỳnh Thị Yến N, sinh ngày 23/02/1999 và Huỳnh Thị Yến H, sinh ngày 12/02/2000 (đã thành niên); Huỳnh

Trọng P, sinh ngày 14/9/2003. Giao cho bà Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Trọng P. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông N cho đến khi bà T có yêu cầu.

Ông Huỳnh Trung N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của trẻ, theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em hoặc Hội Liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà Lê Thị T phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng lệ phí bà T đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0014627 ngày 03/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lê Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Thi hành tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị T và ông Huỳnh Trung N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1178/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1178/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về