Bản án 1177/2019/HNGĐ-ST ngày 09/09/2019 về tranh chấp ly hôn giữa Chị Th và anh H  

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1177/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ TH VÀ ANH H

Ngày 09 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 512/2019/HNST ngày 24 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2019/QĐXX-HN ngày 30 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 150/2019/QĐST-HN ngày 20 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thu Th, sinh năm 1977

Thường trú: Số 5 đường Nguyễn Văn C, phường 3, quận G, Thành phố H

Tạm trú: Số 4 tỉnh lộ 43, phường T, quận Th, Thành phố H (Có đơn xin vắng mặt)

2.Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1972

Địa chỉ: Số 5 đường Nguyễn Văn C, phường 3, quận G, Thành phố H (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 4 năm 2019; bản tự khai và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Vũ Thị Thu Th trình bày: Chị và anh Nguyễn Ngọc H tự nguyện đến với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, quận Th, Thành phố H ngày 03/12/1997 và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 94, quyển số 01/1997. Hạnh phúc gia đình kéo dài đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do làm ăn thua lỗ nên vợ chồng thường xuyên gây lộn. Hạnh phúc gia đình không đạt như mong muốn. Năm 2016, chị có nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thủ Đức và Tòa án đã bác đơn khởi kiện ly hôn của chị để vợ chồng về đoàn tụ nhưng cuộc sống vợ chồng vẫn không được cải thiện. Chị và anh H đã ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn vì vậy chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H để sớm ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thảo U, sinh ngày 29/01/1999( đã trưởng thành) và Nguyễn Vũ Đức Tr, sinh ngày 10/5/2001.

Chị yêu cầu anh H nuôi dưỡng trẻ Tr đến tuổi trưởng thành và chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th tự khai không có.

Ngày13/5/2019, chị Th có đơn sửa đổi yêu cầu khởi kiện không giao trẻ Tr cho anh H nuôi dưỡng vì trẻ Tr đã đủ 18 tuổi và chị Th không cấp dưỡng nuôi con.

-Tòa án đã tiến hành xác minh; tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải cho anh H đến Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H không đến Tòa án nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa:

Chị Th có đơn xin vắng mặt tuy nhiên chị vẫn bảo lưu ý kiến của chị yêu cầu ly hôn với anh H.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thảo U, sinh ngày 29/01/1999( đã trưởng thành) và Nguyễn Vũ Đức Tr, sinh ngày 10/5/2001( đã trưởng thành) nên chị Th không đặt ra yêu cầu anh H nuôi dưỡng trẻ Tr và chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th tự khai không có.

Anh Nguyễn Ngọc H là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

-Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi xét xử thấy rằng Thẩm phán đã thực hiện đúng và đầy đủ nội dung quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án về thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa nhưng người tham gia tố tụng, đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải. Thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về phiên tòa sơ thẩm.

- Về nội dung đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thị Thu Th ly hôn với anh Nguyễn Ngọc H Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thảo U, sinh ngày 29/01/1999( đã trưởng thành) và Nguyễn Vũ Đức Tr, sinh ngày 10/5/2001 (đã trưởng thành). Chị Th không đặt ra yêu cầu anh H nuôi dưỡng trẻ Tr vì trẻ Tr đã tròn 18 tuổi và chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th tự khai không có.

Chị Thảo phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Vũ Thị Thu Th khởi kiện bị đơn anh Nguyễn Ngọc H đang cư ngụ tại địa chỉ số 5 đường Nguyễn Văn C, phường 3, quận G, Thành phố H, do đó đây là vụ án tranh chấp “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Anh Nguyễn Ngọc H là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Ngày 20/8/2019, chị Th có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa do bận công việc. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung tranh chấp:

-Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Th, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 94, quyển số 01/1997 do Uỷ ban nhân dân phường Tam P, quận Thủ Đ,Thành phố H cấp cho chị Vũ Thị Thu Th và anh Nguyễn Ngọc H ngày 03 tháng 12 năm 1997 thì hôn nhân của chị Th và anh H là hôn nhân hợp pháp được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Ti bản tự khai ngày 24/5/2019, chị Th yêu cầu ly hôn với anh H vì chị Th cho rằng mâu thuẫn vợ chồng là do làm ăn thua lỗ nên vợ chồng thường xuyên cãi lộn nhau. Hạnh phúc không đạt như mong muốn, do đó chị Th có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh H theo Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào kết quả xác minh ngày 18/7/2019 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp và Hội phụ nữ phường v, quận G, Thành phố H nơi chị Th và anh H chung sống phát sinh mâu thuẫn thì: “ Hai vợ chồng anh H và chị Th sống với nhau từ khi đăng ký kết hôn đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng do chị Th làm ăn thất bại dẫn đến nợ nần và chị Th đến quận Thủ Đ sống. Từ năm 2014 cho đến nay chị Th không còn sống với anh H tại địa chỉ 5 Nguyễn Văn C, phường 3, quận G. Theo anh H thì vợ chồng đã ly thân từ đó cho đến nay ”.

Căn cứ theo Điều 19 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định:

1. Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.” Chị Th và anh H chung sống với nhau nhưng không hạnh phúc là do chị Th làm ăn thua lỗ nên vợ chồng thường xuyên cãi lộn nhau. Hạnh phúc gia đình không đạt như mong muốn. Căn cứ bản tự khai ngày 24/5/2019 thì năm 2016 chị Th đã nộp đơn ly hôn và đến ngày 23/6/2016, Tòa án nhân dân quận Thủ Đ đã xét xử và ban hành bản án số 616/2016/HNGĐ-ST bác đơn yêu cầu ly hôn của chị Th để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng cuộc sống vẫn không được cải thiện và vợ chồng thường xuyên gây lộn và không có tiếng nói chung, cuộc sống vợ chồng thật sự ngột ngạt và chi Th đã ly thân anh H từ năm 2014 cho đến nay. Cuộc sống vợ chồng không thể hàn gắn được là do anh H và chị Th là người có lỗi trong việc không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Mặt khác anh H cũng không đến Tòa án để hòa giải đoàn tụ mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 chứng tỏ anh H không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn giữa chị Th và anh H là trầm trọng, mục đích hôn nhân giữa chị Th và anh H không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân năm 2014 thì “Tòa án giải quyết cho ly hôn …nếu có căn cứ về việc vợ chồng có vi phạm nghiêm trọng quyền nghĩa vụ của vợ chồng …mục đích hôn nhân không đạt được…” do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th.

Xét về con chung và cấp dưỡng nuôi con theo đơn khởi kiện của chị Th, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Theo bản tự khai thì chị Th và anh H có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thảo U, sinh ngày 29/01/1999( đã trưởng thành) và Nguyễn Vũ Đức Tr, sinh ngày 10/5/2001( đã trưởng thành).

Ngày13/5/2019, chị Th có đơn sửa đổi yêu cầu khởi kiện không giao trẻ Tr cho anh H nuôi dưỡng vì trẻ Tr đã đủ 18 tuổi và chị Th không cấp dưỡng nuôi con.

Đi với trẻ U và trẻ Tr tính đến hôm nay cà 02 trẻ đã đủ 18 tuổi và cả 2 trẻ không bị bệnh tật gì và chị Th không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong khi đó anh H dù được triệu tập hợp lệ nhưng anh không đến Tòa án để lấy lời khai về việc anh có yêu cầu được nuôi dưỡng con chung hay không hoặc cấp dưỡng nuôi con hay không do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn sửa đổi yêu cầu khởi kiện cũng như bản tự khai ngày 24/5/2019 chị Th không đặt ra cấp dưỡng và 02 trẻ đã tròn 18 tuổi do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Tại đơn khởi kiện cũng như bản tự khai ngày 24/5/2019 chị Th tự khai tài sản chung và nợ chung chị và anh H không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh H không đến Tòa án để Tòa án lấy lời khai của anh H về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân do đó sau này nếu anh H có tranh chấp về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì anh H sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

Án phí hôn nhân sơ thẩm:

Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) chị Th tự nguyện chịu nhưng được khấu trừ vào biên lai tạm ứng án phí số AA/2018/0000564 ngày 24/4/2019. Do đó chị Th đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

[3]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; Điều 220; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 và Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19; Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Căn cứ điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án ;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Thu Th ly hôn với anh Nguyễn Ngọc H (Giấy chứng nhận kết hôn số 94, quyển số 01/1997 do Uỷ ban nhân dân phường T, quận Thủ Đ, Thành phố H cấp cho chi Vũ Thị Thu Th và anh Nguyễn Ngọc H ngày 03/12/1997 hết hiệu lực pháp luật).

2. Về con chung: Chị Th và anh H có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thảo U, sinh ngày 29/01/1999( đã trưởng thành) và Nguyễn Vũ Đức Tr, sinh ngày 10/5/2001( đã trưởng thành).

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th tự khai không có.

4. Án phí hôn nhân sơ thẩm: Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) chị Th phải chịu nhưng được khấu trừ vào biên lai tạm ứng án phí số AA/2018/0000564 ngày 24/4/2019. Do đó chị Th đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo:

Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt, niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1177/2019/HNGĐ-ST ngày 09/09/2019 về tranh chấp ly hôn giữa Chị Th và anh H  

Số hiệu:1177/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về