Bản án 1174/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 1174/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 401/2018/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 8 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3461/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 6734/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Phan Bảo N, sinh năm 1991 (vắng mặt).

Địa chỉ thường trú: Đường N, Tổ P, phường T, quận C, thành phố Hà Nội. Địa chỉ tạm trú: Đường T, Khu phố Q, phường B, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Phạm Quốc H, sinh năm 1991 (vắng mặt) Quốc tịch: Hoa Kỳ.

Địa chỉ: King Rd, # 340 Sanjose, California, USA.

Bà Nguyễn Phan Bảo N đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Nguyễn Phan Bảo N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Phạm Quốc H quen biết và kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 606, quyển số 04, ngày 20/11/2015. Đến ngày 30/11/2016, bà sinh bé trai tên là Phạm W. Trong thời gian chung sống, bà và ông H phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã và không tôn trọng nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2017 đến nay, kể từ thời điểm sống ly thân, ông H không liên hệ, quan tâm, chăm sóc cho bà và con trai. Hiện nay, bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.

Về con chung: Có 01 con chung là trẻ Phạm W, sinh ngày 30/11/2016. Hiện bà đang trực tiếp nuôi dưỡng. Bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng trẻ W cho đến khi trẻ thành niên, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Vì bận việc, bà đề nghị được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Bị đơn là ông Phạm Quốc H, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã triệu tập hợp lệ: Tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày, giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ theo địa chỉ do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu ông H có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc bà N khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo văn bản ủy thác tư pháp số 821/TTTPDS-TA30 ngày 22/11/2018). Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có văn bản đề nghị Cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định. Theo đó, Cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ đã thực hiện ủy thác tư pháp nêu trên bằng phương thức tống đạt hồ sơ trực tiếp cho đương sự. Nhưng cho đến nay, ông H vẫn không có văn bản phản hồi cho Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án: Về tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về nội dung, Kiểm sát viên phân tích yêu cầu của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn là bà Nguyễn Phan Bảo N, Hội đồng xét xử nhận thấy bà N và ông H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy, căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn là ông Phạm Quốc H hiện đang cư trú tại Hoa Kỳ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu cung cấp bản khai; thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến thời điểm xét xử Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bị đơn. Vì vậy căn cứ quy định tại Điều 227; Điều 228; khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của bà Nguyễn Phan Bảo N yêu cầu ly hôn ông Phạm Quốc H, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà N (bà N cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời khai của bà) thì bà và ông H chung sống không hạnh phúc. Trong thời gian chung sống, hai bên phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng không thể giải quyết được, ông H không quan tâm, chăm sóc gia đình. Do khoảng cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay bà N và ông H đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà N yêu cầu ly hôn với ông H là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Có 01 con chung là trẻ Phạm W, sinh ngày 30/11/2016. Hiện bà N đang trực tiếp nuôi dưỡng. Bà N có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng trẻ W cho đến khi trẻ thành niên, không yêu cầu ông H cấp dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, trẻ W đã chung sống với mẹ từ khi sinh ra cho đến nay và theo quy định của pháp luật thì con dưới 36 tháng tuổi sẽ được ưu tiên giao cho mẹ nuôi dưỡng (Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình). Do đó, giao cho bà N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ W cho đến khi trẻ thành niên. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với ông Phạm Quốc H cho đến khi bà N có yêu cầu.

[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà N ly hôn với ông H và đề nghị giao trẻ Phạm W cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Nguyễn Phan Bảo N khai không có, Tòa án không xem xét.

[7] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Nguyễn Phan Bảo N chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 5 Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Phan Bảo N.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Phan Bảo N được ly hôn với ông Phạm Quốc H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 606, Quyển số 04 ngày 20/11/2015 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp cho bà Nguyễn Phan Bảo N và ông Phạm Quốc H không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Về con chung: Giao con chung tên Phạm W, sinh ngày 30/11/2016 cho bà Nguyễn Phan Bảo N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trẻ thành niên.

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với ông Phạm Quốc H cho đến khi bà N có yêu cầu.

Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được cản trở. Bà N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung của ông H nếu ông H lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì quyền lợi của con chung, khi có yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em hoặc Hội liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

1.3. Về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Nguyễn Phan Bảo N khai không có, Tòa không xét.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Nguyễn Phan Bảo N chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà N đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2017/0049355 ngày 10/8/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã nộp đủ tiền án phí.

3. Thi hành án tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Bà Nguyễn Phan Bảo N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông Phạm Quốc H được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 1174/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1174/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về