Bản án 117/2020/HNGĐ-ST ngày 29/10/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 117/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 231/2020/TLST - HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Văn Thị D, sinh năm: 1991 (có mặt). Hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã L, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

Tạm trú: Đường M, tổ 13, khu phố 2, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Anh Ngọc Văn Đ, sinh năm: 1981 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp S, xã X, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/3/2020 và quá trình giải quyết vụ án, chị Văn Thị D là nguyên đơn trình bày:

Chị và anh Đ tự nguyện kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện G; chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống và thường cự cãi nhau. Tháng 6/2018, chị và anh Đ tự chấm dứt quan hệ vợ chồng và sống ly thân với nhau cho đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng tự hàn gắn tình cảm để tiếp tục chung sống nhưng không đạt kết quả.

Quá trình chung sống chị và anh Đ có một người con chung là cháu Ngọc Gia A, sinh ngày 18/02/2015 do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị D yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân yêu cầu được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Theo đơn khởi kiện chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, tại phiên tòa chị xác định giữa chị và anh Đ không có tranh chấp về việc nuôi con chung nên xin rút yêu cầu tranh chấp về con chung khi ly hôn với anh Đ.

Về tài sản và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Ngọc Văn Đ là bị đơn: Không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị D, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để Tòa án xem xét.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của Người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh Đ chưa thực hiện đúng về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị D và anh Đ kết hôn 2013, có đăng ký kết hôn năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện G nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Chị D và anh Đ chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn theo như chị D trình bày; chị D và anh Đ cho nhau thời gian để khắc phục sửa chữa khuyết điểm nhưng không mang lại hiệu quả tích cực, trái lại ngày càng trầm trọng nên anh, chị đã chấm dứt quan hệ vợ chồng và sống ly thân với nhau từ tháng 6/2018 đến nay, anh Đ không có ý kiến phản đối yêu cầu của chị D. Xét thấy, hôn nhân của chị D và anh Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, việc chị D yêu cầu được ly hôn với anh Đ là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D đối với anh Đ.

Về con chung: Tại phiên tòa chị D tự nguyện rút yêu cầu về việc tranh chấp nuôi con chung với anh Đ. Căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị chấp nhận và đình chỉ yêu cầu tranh chấp nuôi con khi ly hôn giữa chị D và anh Đ.

Về tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu giải quyết, đề nghị không xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Văn Thị D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Ngọc Văn Đ. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Ngọc Văn Đ là bị đơn cư trú tại huyện G, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa cho anh Đ. Tuy nhiên, anh Đ không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị D, không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để được xem xét, không đến Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải, phiên tòa là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị D giao nộp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác, anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh Đ.

[2]. Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh Đ tự nguyện kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã X, huyện G, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận ngày 02/01/2014 nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp. Chị D xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống và thường cự cãi nhau. Tháng 6/2018, chị và anh Đ không còn chung sống với nhau cho đến nay, chị D thừa nhận trong thời gian sống ly thân anh, chị tự hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt kết quả do chị không còn tình cảm với anh Đ. Do đó, chị D và anh Đ đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tòa án xác minh về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị D và anh Đ tại nơi cư trú, Trưởng ấp S, xã X, huyện G, tỉnh Kiên Giang cho biết: Ban lãnh đạo ấp không biết được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị D và anh Đ.

Vì vậy, Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị D và anh Đ nhưng không đạt kết quả do anh Đ vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu của chị D; chị D xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh Đ nên cương quyết yêu cầu ly hôn, điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của chị D và anh Đ đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị D yêu cầu ly hôn với anh Đ là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Chị D và anh Đ có một người con chung là cháu Ngọc Gia A, sinh ngày 18/02/2015. Theo đơn khởi kiện chị D yêu cầu nuôi cháu A, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, Tại phiên tòa chị D xác định giữa chị và anh Đ không có tranh chấp về việc nuôi con chung nên chị rút lại yêu cầu giải quyết về con. Xét thấy, việc rút yêu cầu tranh chấp về con chung khi ly hôn của chị D là tự nguyện, không trái với quy định pháp luật. Căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử yêu cầu nuôi con chung khi ly hôn giữa chị D và anh Đ. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu A, Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của chị D nhận trách nhiệm tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A. Trường hợp, chị D và anh Đ có tranh chấp về việc nuôi con chung thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

Về tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình;

Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân chấp chận cho chị Văn Thị D được ly hôn với anh Ngọc Văn Đ.

2. Về con chung: Đình chỉ xét xử yêu cầu tranh chấp về con chung khi ly hôn giữa chị Văn Thị D và anh Ngọc Văn Đ. Ghi nhận ý kiến của chị D nhận trách nhiệm tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ngọc Gia A, sinh ngày 18/02/2015.

Trường hợp, chị D và anh Đ có tranh chấp về việc nuôi con chung thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

3. Về án phí: Chị Văn Thị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), do ông Nguyễn U nộp thay, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003357 ngày 22/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang, chị D đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Văn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án là ngày 29/10/2020; anh Ngọc Văn Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 117/2020/HNGĐ-ST ngày 29/10/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

Số hiệu:117/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về