Bản án 117/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 117/2019/HS-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 115/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến V., sinh năm 1982, tại tỉnh Nam Định; Thường trú: Thôn A, xã B, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ph. và bà Mai Thị Ch.; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con; tiền án: Ngày 27/3/2007 bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Bản án số 42/2007/HSST), chấp hành xong hình phạt tù năm 2007, chưa đóng tiền án phí sơ thẩm; tiền sự: Ngày 03/7/2017 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Quyết định số 241/2017/QĐ-TA), chấp hành xong ngày 11/01/2019; nhân thân: Ngày 12/6/2009 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 174/2009/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/10/2012, đã đóng tiền án phí sơ thẩm; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2019 (có mặt).

- Người bị hại: Chị Văn Thị Thảo Ng., sinh năm 1997; thường trú: Ấp A2, xã B2, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở: Số X, đường Y, phường Z, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Minh V2., sinh năm 1979; thường trú: Thôn A, xã B, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 00 phút ngày 01/3/2019, Nguyễn Tiến V. điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Wave, biển số 54L1-4618 lưu thông trên đường Y2 hướng về đường Y3 thì thấy chị Văn Thị Thảo Ng. điều khiển xe Airblade đang lưu thông phía trước cùng chiều. Trong túi quần bên phải của chị Ng. có để 01 chiếc điện thoại di động Samsung J4 Plus nên Văn nảy sinh ý định cướp giật tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến trước số X2 đường Y2, phường Z2, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Tiến V. điều khiển xe áp sát bên phải chị Ng., dùng tay trái giật điện thoại trong túi quần chị Ng. rồi tăng ga bỏ chạy. Chị Ng. tri hô và đuổi theo. Khi Nguyễn Tiến V. chạy đến trước số X4, đường Y4, phường Z4 thì bị quần chúng nhân dân bắt quả tang đưa về Công an phường Z2 xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Tiến V. khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Theo Kết luận định giá tài sản số: 122/KL-HĐ ĐGTS-TTHS ngày 12/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Tân Phú thì: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 Plus, màu hồng Imei: 351590103572751. Tài sản đã qua sử dụng, Tỷ lệ còn lại 70%. Trị giá 1.500.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại – chị Văn Thị Thảo Ng. đã nhận lại tài sản là 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 Plus, màu hồng, số Imei: 351590103572751. Chị Ng. không có yêu cầu gì thêm.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 Plus, màu hồng, số Imei: 351590103572751. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu là chị Văn Thị Thảo Ng., chị Ng. không có yêu cầu gì thêm.

- 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda Wave, biển số: 54L1-4618, màu sơn: Đen, số máy: HC12E1040240, số khung: RLHHC12168Y040182. Qua xác minh chủ sở hữu là anh Bùi Thế A. đã bán lại cho anh Nguyễn Minh V2. (anh trai của Nguyễn Tiến V.). Anh V2. cho V. mượn sử dụng đi lại và không biết việc V. sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh V2..

- 01 (một) điện thoại di động Oppo, số Imei: 862988031857991 (có gắn sim số 0373948263) (thu giữ của Nguyễn Tiến V.).

Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 202/PNK ngày 26/3/2019 của Công an quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Bản cáo trạng số: 93/CT-VKSQTP ngày 19/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến V. về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến V. từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Về vật chứng vụ án đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tiến V. thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đủ cơ sở để xác định: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 01/3/2019, Nguyễn Tiến V. điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Wave, biển số 54L1-4618 thực hiện hành vi cướp giật 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 Plus của chị Văn Thị Thảo Ng. tại trước số X2, đường Y2, phường Z2, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh rồi tăng ga bỏ chạy nhưng sau đó đã bị quần chúng nhân dân bắt quả tang và giao cho Công an phường Z2, quận Tân Phú xử lý.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú truy tố bị cáo Nguyễn Tiến V. về tội “Cướp giật tài sản” theo Điều 171 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

Bị cáo V. sử dụng xe gắn máy là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội là thuộc thường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo V. phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác, được pháp luật bảo vệ, đồng thời ảnh hưởng đến trật tự, trị an, an toàn xã hội. Bản thân bị cáo đã trên 18 tuổi, đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng mà không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo và liều lĩnh trên đường phố đông người vào ban ngày chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của bị cáo. Bị cáo là người có nhân thân xấu và có 01 tiền sự. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy khi lượng hình đối với bị cáo, cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc để giáo dục bị cáo nói riêng và để đảm bảo việc đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Tiến V. phạm tội khi chưa được xóa án tích là thuộc trường hợp Tái phạm. Do đó cần áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự khi lượng hình đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Tiến V. tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi lượng hình.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Do đó miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Tiến V..

[5] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại chị Văn Thị Thảo Ng. không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 Plus, màu hồng, số Imei: 351590103572751. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu là chị Văn Thị Thảo Ng., chị Ng. không có yêu cầu gì thêm. Do đó Hội đồng xét xử không xét.

- 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda Wave, biển số: 54L1-4618, màu sơn: Đen, số máy: HC12E1040240, số khung: RLHHC12168Y040182. Qua xác minh chủ sở hữu là anh Bùi Thế A. đã bán lại cho anh Nguyễn Minh V2. (anh trai của Nguyễn Tiến V.). Anh V2. cho V. mượn sử dụng đi lại và không biết việc V. sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh V2., anh V2. không có yêu cầu gì thêm. Do đó Hội đồng xét xử không xét.

- 01 (một) điện thoại di động Oppo, số Imei: 862988031857991 (có gắn sim số 0373948263). Đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại chiếc điện thoại di động trên cho bị cáo Nguyễn Tiến V.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ Điều 171 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến V. phạm tội “Cướp giật tài sản”.

[2] Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến V. 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2019.

Min hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Tiến V..

[3] Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tiến V.: 01 (một) điện thoại di động Oppo, số Imei: 862988031857991 (có gắn sim số 0373948263).

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 202/PNK ngày 26/3/2019 của Công an quận Tân Phú).

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

[6] Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:117/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về