Bản án 117/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 117/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 547/2018/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 121/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Như Y, sinh năm 1991;

Nơi cư trú: Tổ dân phố Bá Hà 2, phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

2. Bị đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1990;

Nơi cư trú: Tổ dân phố Bá Hà 1, phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Như Y trình bày:

Bà và ông Phạm Văn T tự nguyện kết hôn năm 2011 và đã được Ủy ban nhân dân phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 44 quyển số 01/2011 ngày 20/4/2011. Qua quá trình chung sống ông bà có với nhau một con chung là Phạm Nguyễn Như Q, sinh ngày 26/6/2011.

Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên xảy ra kình cãi và mâu thuẫn vì ông T thường xuyên ăn nhậu, chơi bời rồi về nhà tìm cách chửi mắng, đánh đập bà. Năm 2014, bà phát hiện ông T nghiện ma túy đá, bà đã khuyên bảo ông T cai nghiện nhiều lần nhưng ông T không bỏ mà còn lún sâu vào con đường nghiện ngập. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt, cuộc sống chung không thể kéo dài nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Phạm Văn T.

Về con chung: Bà tự nguyện trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Phạm Nguyễn Như Q, sinh ngày 26/6/2011 đến tuổi trưởng thành. Bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu giải quyết tài sản chung và xác định không có nợ chung với ông T.

Bị đơn ông Phạm Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại Tòa án, ông T trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Như Y tự nguyện kết năm 2011 và đã được Ủy ban nhân dân phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 44 quyển số 01/2011 ngày 20/4/2011. Qua quá trình chung sống ông bà có với nhau một con chung là Phạm Nguyễn Như Q, sinh ngày 26/6/2011.

Ông thừa nhận cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên xảy ra kình cãi và mâu thuẫn vì lỗi nơi ông. Nay bà Y khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, ông không đồng ý vì ông còn thương vợ, thương con. Ông xin bà Y cho ông một cơ hội để sửa chữa lỗi lầm và hàn gắn gia đình.

Về con chung: Nếu Tòa giải quyết ly hôn, ông tự nguyện trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Phạm Nguyễn Như Q, sinh ngày 26/6/2011 đến tuổi trưởng thành. Ông không yêu cầu bà Y cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa giải quyết về tài sản chung và xác định không có nợ chung với bà Y.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Như Y vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện, yêu cầu ly hôn với ông Phạm Văn T; về con chung: Bà tự nguyện trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Phạm Nguyễn Như Q, sinh ngày 26/6/2011 đến tuổi trưởng thành. Bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa giải quyết về tài sản chung và xác định không có nợ chung với ông T.

Cháu Phạm Nguyễn Như Q có nguyện vọng xin ở với mẹ.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã chấp hành đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành nhưng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ, công khai đảm bảo quyền lợi hợp pháp.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn; về con chung: Giao con chung là Phạm Nguyễn Như Q, sinh ngày 26/6/2011 cho bà Nguyễn Thị Như Y trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Phạm Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết tài sản chung và xác định không có nợ chung với bị đơn nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Phạm Văn T đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Như Y yêu cầu giải quyết ly hôn với bị đơn ông Phạm Văn T hiện cư trú tại: Tổ dân phố Bá Hà 1, phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa nên quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là tranh chấp về quan hệ hôn nhân và gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Như Y và ông Phạm Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 44 quyển số 01/2011 ngày 20/4/2011 vì vậy đây là hôn nhân hợp pháp.

Qua lời trình bày của bà Nguyễn Thị Như Y và ông Phạm Văn T, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện, giữa vợ chồng có sự yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, tuy nhiên quan hệ hôn nhân giữa bà Y, ông T không hạnh phúc do thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vì ông T thường xuyên ăn nhậu, chơi bời rồi về nhà tìm cách chửi mắng, đánh đập bà Y. Năm 2014, bà Y phát hiện ông T nghiện ma túy đá, bà đã khuyên bảo ông T cai nghiện nhiều lần nhưng ông T không bỏ mà còn lún sâu vào con đường nghiện ngập. Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, ông T cũng thừa nhận gia đình thường xuyên xảy ra kình cãi và mâu thuẫn vì lỗi nơi ông, ông không đồng ý ly hôn và xin bà Y cho ông một cơ hội để sửa chữa lỗi lầm và hàn gắn gia đình.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông T đến tham dự phiên tòa nhưng ông T cố tình vắng mặt không đến, điều này đủ cơ sở xác định ông T không còn quan tâm đến bà Y. Việc ông T không đồng ý ly hôn chỉ nhằm mục đích gây khó khăn cho bà Y. Như vậy, mục đích hôn nhân của bà Y, ông T không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, yêu cầu xin ly hôn của bà Y là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

[4] Về con chung: Theo tài liệu giấy khai sinh và lời khai của bà Y, ông T thì ông bà có một con chung là Phạm Nguyễn Như Q, sinh ngày 26/6/2011; cả bà Y, ông T đều có nguyện vọng nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con chung phát triển toàn diện và được sống ổn định, hiện tại cháu Phạm Nguyễn Như Q đang sống với mẹ và có nguyện vọng được ở với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn vì vậy Hội đồng xét xử xét nên giao cháu Quỳnh cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị Như Y không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Y, ông T không yêu cầu giải quyết tài sản chung, và xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Như Y phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[7] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Như Y.

1.1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Như Y được ly hôn ông Phạm Văn T.

1.2. Về con chung: Giao con chung là Phạm Nguyễn Như Q, sinh ngày 26/6/2011 cho bà Nguyễn Thị Như Y trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Phạm Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Phạm Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con chung hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Như Y phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà Y đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0004225 ngày 17 tháng 9 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Bà Y đã nộp đủ án phí.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:117/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về