TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 116/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 126/2019/TLST- HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Tuấn T, sinh năm 1996, tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ 29, ấp A, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị Bích P; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997 (đã chết)
Người đại diện hợp pháp của bị hại:
Bà Đặng Thị D, sinh năm 1970; nơi cư trú: Tổ 10, khu phố 4, thị trấn E, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh (có mặt).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Bích P, sinh năm 1966; nơi cư trú: Tổ 29, ấp A, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 11-9-2019, bị cáo T điều khiển xe mô tô biển số 70K1-000.60 đi từ đường nhánh ra đường chính (tỉnh lộ 78 ) khi ra đến đường 785 tại khu vực ấp F, xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, T chuyển hướng sang phần đường bên phải không quan sát, không bật đèn tín hiệu chuyển hướng, không nhường đường cho phương tiện lưu thông trên đường chính, khi đến gần giữa đường (giải phân cách) xe của T đã đụng vào xe mô tô biển số 70K1-561.87 do anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997 ngụ khu phố 4, thị trấn E, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh điều khiển đi đúng phần đường hướng ngược lại. Tai nạn xảy ra, anh L tử vong tại chỗ.
Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Tuấn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.
- Kết luận giám định pháp y về tử thi số 116/2019/TT ngày 07-10-2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Tây Ninh, kết luận: Nguyễn Thanh L tử vong do chấn thương sọ não.
- Kết luận giám định số 1384/KL-KTHS, ngày 16-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Nồng độ cồn trong máu của nạn nhân Nguyễn Thanh L 171,286mg/100ml máu.
- Hồ sơ bệnh án của Nguyễn Tuấn T tại Bệnh viện Đa khoa Lê Ngọc Tùng, Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh, Bệnh viện Chợ Rẫy không thể hiện xét nghiệm nồng đồ cồn và ma túy.
* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:
- 01 (một) xe mô tô mang biển số 70K1-561.87 đã trả lại cho anh Huỳnh Tấn T1.
- 01 (một) mô tô mang biển số 70K1-000.60 của bà Trần Thị Bích P (mẹ của bị cáo T) đang tạm giữ.
* Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo Nguyễn Tuấn T đã bồi thường số tiền 82.200.000 đồng cho gia đình bị hại, bà Đặng Thị D là đại diện hợp pháp của bị hại xin bãi nại và không yêu cầu bồi thường thêm.
Tại phiên tòa bị cáo T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, vật chứng thu giữ như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Tại bản cáo trạng số: 134/CT-VKSTC ngày 14-11-2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng được tính từ ngày tuyên án.
* Về bồi thường thiệt hại và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử, xử lý vật chứng trả lại xe mô tô biển số 70K1-000.60 cho bà Trần Thị Bích P; ghi nhận gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo T bồi thường thiệt hại gì thêm.
Bị cáo Nguyễn Tuấn T không tranh luận.
Người đại diện hợp pháp của bị hại, bà Đặng Thị D trình bày: Bà nhận bồi thường của gia đình bị cáo số tiền 82.200.000 đồng. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu đề nghị là phù hợp với hành vi của bị cáo, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, không tranh luận và không yêu cầu gì thêm.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 11-9-2019, bị cáo T điều khiển xe mô tô biển số 70K1-000.60 đi từ đường nhánh ra đường chính (đường 785) để sang đường đi về hướng thành phố Tây Ninh. Khi ra đến đường 785 bị cáo chuyển hướng sang phần đường bên phải không quan sát, không bật đèn tín hiệu chuyển hướng, không nhường đường cho phương tiện lưu thông trên đường chính nên đụng vào xe mô tô biển số 70K1-651.87 do anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997 ngụ khu phố 4, thị trấn E, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh điều khiển đi đúng phần đường hướng ngược lại. Tai nạn xảy ra, anh L tử vong tại chỗ. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật giao thông đường bộ. Do đó, đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Tuấn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự theo luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.
[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng, bị cáo điều khiển phương tiện tham gia giao thông nhưng không tuân thủ quy tắc khi tham gia giao thông. Mặc dù, hậu quả xảy ra bị cáo không mong muốn nhưng lỗi thuộc về bị cáo, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi của bị cáo gây ra.
[4] Khi quyết định hình phạt cần xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
[4.1] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và được người đại diện hợp pháp của bị hại bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình bị hại; đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4.2] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 51 Bộ Luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, xét thấy không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
[6] Về bồi thường thiệt hại: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 591 Bộ Luật Dân sự. Ghi nhận đại diện hợp pháp của bị hại L là bà Đặng Thị D đã nhận số tiền 82.200.000 đồng của gia đình bị cáo, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng tạm giữ 01 (một) xe mô tô mang biển số 70K1-000.60 của bà Trần Thị Bích P cần trả lại cho bà Trần Thị Bích P là phù hợp.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Tuấn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ các điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn T 01 (một) năm tù, cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, thời gian thử thách là 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Tuấn T cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 156/QĐ ngày 04-11-2019 đối với bị cáo Nguyễn Tuấn T.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trả lại cho bà Trần Thị Bích P 01 (một) xe mô tô biển số 70K1-000.60, số máy 036565, số khung 036562.
(Vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27-11-2019).
3. Về bồi thường thiệt hại: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 591 Bộ Luật Dân sự, ghi nhận đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thanh L là bà Đặng Thị D đã nhận số tiền bồi thường 82.200.000 đồng của bị cáo Nguyễn Tuấn T, không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Tuấn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Tuấn T, bà Đặng Thị D, bà Trần Thị Bích P có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 116/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 116/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về