TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 116/2018/HS-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 125/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 144/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thanh Đ; sinh năm 1995 tại Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú: phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1977 và bà: Phạm Thị Quỳnh M, sinh năm 1978; có vợ: Nguyễn Thị Bá T, sinh năm 1994 và 02 con: lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 0035376/QĐ-XPHC ngày 25/10/2016 Công an Phường 14, quận Tân Bình xử phạt 1.650.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản (chưa đóng tiền phạt), Quyết định số 226/QĐ-TA ngày 14/12/2016 Tòa án nhân dân quận Tân Bình áp dụng biên pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng; bị bắt, tạm giữ: ngày 25/6/2018. Có mặt.
2. Nguyễn Thanh N; sinh năm 1998 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: xã C, huyện D, tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú:; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thanh Đ1, sinh năm 1970 và bà: Vũ Vi V, sinh năm 1976; chồng, con: chưa có; nhân thân: Bản án số 13/2016/HSST ngày 11/3/2016 Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 06/5/2016; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ: 25/6/2018. Có mặt.
- Bị hại: Chị Trần Nguyễn Bích T, sinh năm 1993; nơi cư trú: 6/41 Bùi Thị Xuân, Phường E, quận F, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị Bá T, sinh năm 1994, địa chỉ: 368/896C Cách Mạng Tháng 8, Phường 4, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 00 giờ ngày 25/6/2018, Nguyễn Thanh N (My) điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Wave biển số 50N1-181.74 chở Nguyễn Thanh Đ (Bi) lưu thông trên đường XX, Phường E, quận F. Khi đến gần hẻm số YY đường XX, Đ nhìn thấy chị Trần Nguyễn Bích T đang đứng ở đầu hẻm sử dụng điện thoại di động. Đ chỉ cho N thấy. N hiểu ý của Đ là muốn giật điện thoại di động của chị T nên N điều khiển xe gắn máy chạy ép sát vào người chị T, để cho Đ ngồi phía sau dùng tay phải giật chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu hồng của chị T đang cầm trên tay phải. Do bị lạc tay lái nên N và Đ đều té xe, ngã xuống đường. N bị xe đè lên người. Chị T tri hô “cướp, cướp…” thì có ông Lâm Minh Đ nghe thấy nên chạy đến hỗ trợ chị T bắt giữ được N. Còn Đ bỏ chạy bộ ra hướng đường ZZ thì bị anh Lê Tường Q và chị Hoàng Băng C đang điều khiển xe gắn máy trên đường nghe thấy tiếng tri hô của chị T, đuổi theo Đ đến trước số AA đường ZZ, Phường E, quận F. Đ bị té ngã làm rơi chiếc điện thoại di động của chị T và túi xách của Đ xuống đường. Đ tiếp tục bỏ chạy thì anh Q bắt giữ được giao Công an Phường E, quận F xử lý.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Nguyễn Thanh Đ và Nguyễn Thanh N đã thừa nhận toàn bộ hành vi cướp giật tài sản như nêu trên.
Kết quả định giá tại Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tại thời điểm tháng 6/2018, điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu hồng 64GB, đã qua sử dụng, trị giá 7.000.000 đồng.
Tang vật thu giữ:
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu hồng, bị vỡ màn hình, đã trả lại cho bị hại chị Trần Nguyễn Bích T.
- 01 xe gắn máy hiệu Wave biển số 50N1-181.74 là phương tiện gây án. Qua xác minh, xe do ông Nguyễn Thanh Đ1, sinh năm 1970, hộ khẩu thường trú: Phường H, quận F đứng tên đăng ký sở hữu. Vào tối ngày 24/6/2018, con gái ông Nguyễn Thanh N lấy xe chở em gái đi làm rồi đi chơi không về. Việc N sử dụng để cướp giật điện thoại, ông Đ1 không biết. Xét thấy xe gắn máy trên là tài sản hợp pháp của ông Đ1 nên Cơ quan Công an đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe trên cho ông Đ1.
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, phía sau có 01 ốp lưng có 01 USD số A29865828E thu giữ của Nguyễn Thanh N.
- 01 túi đeo chéo màu đen có chữ AnCam GL, 01 điện thoại di động hiệu Asus màu đen, 01 mắt kính màu đen, 01 chai nước hoa hiệu Boss đã qua sử dụng, 01 chai nước hoa hiệu Versace đã qua sử dụng, 04 tấm hình thẻ 3x4, 01 sổ hộ khẩu phô tô, 01 giấy CMND photo thu giữ của Đ. Đ khai số tài sản trên là của Đ, riêng điện thoại di động hiệu Asus là của vợ tên Nguyễn Thị Bá T. Qua làm việc, chị Thảo không yêu cầu nhận lại điện thoại vì không còn sử dụng được.
- 01 USB màu trắng ghi hình ảnh bắt giữ Đ trên đường ZZ.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã nhập kho vật chứng, chuyển Tòa án xử lý.
Tại bản cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh Đ và Nguyễn Thanh N về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát tại phần luận tội đã tóm tắt lại hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu ra các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nêu rõ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đối với các bị cáo và đề nghị xử phạt mỗi bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.
Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án dành cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh Đ và Nguyễn Thanh N, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; các bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thanh N và Nguyễn Thanh Đ có hành vi điều khiển xe gắn máy áp sát rồi công khai giật lấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S màu hồng trị giá 7.000.000 đồng của chị Trần Nguyễn Bích T, đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất táo bạo, liều lĩnh ngang N chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố nơi đông người và dùng thủ đoạn nguy hiểm là xe gắn máy phân khối lớn, là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện phạm tội, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại và những người đang lưu thông trên đường. Xét về tính chất vụ án là nghiêm trọng, các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, chứng tỏ các bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Xét nhân thân các bị cáo là xấu, bị cáo Đ đã bị xử phạt hành chính, bị cáo N đã bị kết án nhưng các bị cáo không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi, trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Trần Nguyễn Bích T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về vật chứng:
- 01 USB màu trắng ghi hình ảnh bắt giữ bị cáo Đ, Hội đồng xét xử xét thấy đây là chứng cứ của vụ án, có thể lưu giữ được nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, phía sau ốp lưng có 01 USD số A29865828E thu giữ của bị cáo N, Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
- 01 túi đeo chéo màu đen có chữ AnCam GL; 01 mắt kính màu đen; 01 chai nước hoa hiệu Boss đã qua sử dụng; 01 chai nước hoa hiệu Versace đã qua sử dụng; 04 tấm hình thẻ 3x4; 01 sổ hộ khẩu phô tô; 01 giấy CMND phô tô thu giữ của bị cáo Đ. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
- 01 điện thoại di động hiệu Asus màu đen thu giữa của bị cáo Đ, bị cáo khai đây là điện thoại của vợ tên Nguyễn Thị Bá T. Chị Thảo khai điện thoại này không còn sử dụng được, chị không có yêu cầu nhận lại. Hội đồng xét xử xét thấy điện thoại trên không còn giá trị sử dụng và chị Thảo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy.
- Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
[1] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh Đ và Nguyễn Thanh N phạm tội “cướp giật tài sản”.
Xử phạt bị cáo: Nguyễn Thanh Đ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 25/6/2018.
Xử phạt bị cáo: Nguyễn Thanh N 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 25/6/2018.
[2] Tịch thu và tiêu hủy 01 điện thoại di động hiệu Asus màu đen (01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký Phan Hoàng Băng C và dấu mộc của Công an Phường E, quận F).
Lưu hồ sơ vụ án 01 USB màu trắng, hiệu Toshiba 4GB (01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký Đào Ngọc T và dấu mộc của Công an Phường E, quận F).
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh N 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, phía sau ốp lưng có 01 USD số A29865828E (01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký Nguyễn Thanh N và dấu mộc của Công an Phường E, quận F).
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh Đ: 01 túi đeo chéo màu đen có chữ AnCam GL; 01 mắt kính màu đen; 01 chai nước hoa hiệu Boss đã qua sử dụng; 01 chai nước hoa hiệu Versace đã qua sử dụng; 04 tấm hình thẻ 3x4; 01 sổ hộ khẩu photo;
01 giấy xác nhận số CMND photo (01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký Phan Hoàng Băng C và dấu mộc của Công an Phường E, quận F).
(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 158/PNK ngày 03/10/2018 của Công an quận Tân Bình).
[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.
Bản án 116/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 116/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về