Bản án 116/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 116/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 617/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2018 về việc “ ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị Q, sinh năm 1985; Địa chỉ: Tổ 15, ấp A, xã B huyện T, tỉnh Tây Ninh. (có mặt)

Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1981, Địa chỉ: Tổ 15, ấp Thanh A, xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 13 tháng 8 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Dương Thị Q trình bày:

Chị và anh H chung sống với nhau vào năm 2002, đến năm 2006 đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Sống hạnh phúc đến đầu năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân: Do anh H và chị không cùng chung quan điểm, dẫn đến cãi vã thường xuyên. Những năm đầu anh H lo làm ăn nhưng càng về sau anh H ăn chơi không lo lắng cho gia đình, anh H thường đi uống rượu say, về nhà gây gổ đánh đập vợ con. Chị và anh H sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Nay chị thấy tình cảm không còn, chị xin được ly hôn với anh H.

Về con chung: Có hai người Trần Minh K, sinh ngày 23/7/2004 và Trần Kỳ D, sinh ngày 28/02/2007, hiện con tên K sống chung với chị Q, con tên D sống chung với anh H, chị Q yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng.

Về tài sản chung; Nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Anh Trần Văn H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng, nhưng anh H không đến tòa nên không có lời trình bày.

Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Châu Thành trình bày việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và HĐXX: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ một cách khách quan, cụ thể, rõ ràng, chuyển hồ sơ và các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát đúng thời gian quy định.; Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa sơ thẩm dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sự đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Dương Thị Q xử cho chị Q và anh H được ly hôn. Về con chung chị Q được quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng hai con Trần Minh K, sinh ngày 23/7/2004 và Trần Kỳ D, sinh ngày 28/02/2007. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị Q không yêu cầu; Tài sản chung; nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sư , Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị Q và anh Trần Văn H chung sống với nhau vào năm 2002 có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét về mâu thuẫn thấy rằng: Chị Q và anh H sống hạnh phúc đến đầu năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do không cùng chung quan điểm, dẫn đến cãi vã thường xuyên, chị và anh H sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Tại phiên tòa, chị Q xác định tình cảm vợ chồng không còn chị xin ly hôn, xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Q và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Q xử cho chị và anh H được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Q yêu cầu được nuôi hai con Trần Minh K, sinh ngày 23/7/2004 và Trần Kỳ D, sinh ngày 28/02/2007 không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Qua hỏi ý kiến cháu K, cháu D có nguyện vọng sống với chị Q, nên giao hai con cho chị Q nuôi dưỡng giáo dục, anh H không cấp dưỡng nuôi con vì chị Q không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung; Nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhân yêu cầu khởi kiện cùa chị Dương Thị Q xử cho chị và anh Trần Văn H được ly hôn.

2/ Về con chung: Chị Dương Thị Q được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con Trần Minh K, sinh ngày 23/7/2004 và Trần Kỳ D, sinh ngày 28/02/2007. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị Q không yêu cầu, con tên Trần Kỳ D hiện đang sống chung với anh H, anh H có nghĩa vụ giao con lại cho chị Q.

Không ai được ngăn cản anh H quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn.

3/ Tài sản chung; Nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Dương Thị Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm; nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0018884 ngày 13 tháng 8 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Chị Q đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:116/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về