Bản án 116/2018/HNGĐ-ST ngày 18/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 116/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18/6/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 631/2018/TLST-HNGĐ ngày 06/6/2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/6/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Bùi Hữu T, sinh năm 1987.

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1990.

Cùng địa chỉ: Xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Cùng tạm trú: Ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

(Anh T có mặt, chị H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 05/6/2018 và những lời tiếp theo anh Bùi Hữu T, trình bày:

Anh và chị Phạm Thị H chung sống với nhau từ năm 2011, có đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng về sau thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân anh cho rằng cuộc sống vợ chồng không hòa hợp do bất đồng quan điểm, đời sống vợ chồng không hạnh phúc nên vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh xin ly hôn.

Về con chung: Anh T khai chị H có một con chung là cháu Bùi ngọc Như L, sinh ngày 08/9/2012; hiện con đang sống chung với chị H. Khi ly hôn, anh đồng ý giao con được quyền tiếp tục nuôi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh và chị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh T khai không có.

Chị Phạm Thị H xin xét xử vắng mặt nhưng tại bản tự khai: Chị xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn, về con chung, tài sản, nợ cũng như nguyên nhân mâu thuẫn gia đình như anh T trình bày là đúng. Nay anh T xin ly hôn chị đồng ý. Khi ly hôn, chị xin được quyền trực tiếp nuôi con chung.

Về cấp dưỡng: Chị H khai chị và anh T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị H khai không có.

Tại phiên tòa, anh T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không bổ sung ý kiến gì thêm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai công khai tại phiên toà, trên cơ sở trình bày của đương sự, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng, Chị Phạm Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung là đúng với các điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung,

[2.1] Về hôn nhân, Anh Bùi Hữu T và chị Phạm Thị H chung sống với nhau vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp, phù hợp với Điều 11, 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Trước tòa, anh T xin ly hôn vì cho rằng mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn. Chị H xin xét xử vắng mặt nhưng tại bản tự khai chị cũng đồng ý ly hôn.

Nhận thấy, tình cảm vợ chồng giữa anh T và chị H không còn khả năn hàn gắn nên anh Hòa xin ly hôn là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2]. Về con chung: Anh T và chị H thống nhất khai có 01 con chung là cháu Bùi Ngọc Như L, sinh ngày 08/9/2012, hiện con đang sống chung với chị H. Khi ly hôn, anh T đồng ý giao con chung cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng và chị H cũng đồng ý. Do vậy, Hội đồng xét xử giao cháu L cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về cấp dưỡng: Anh T và chị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự thống nhất khai không có.

[3.] Về án phí: Anh Bùi Hữu T phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước là đúng quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 28, 35, 39, 63, 146, 222, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 107, 110 và 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Anh Bùi Hữu T được ly hôn với chị Phạm Thị H.

2. Về con chung: Chị Phạm Thị H được quyền tiếp tục nuôi con chung là cháu Bùi ngọc Như L, sinh ngày 08/9/2012.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Bùi Hữu T và chị Phạm Thị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức hoặc cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

3. Về án phí: Anh Bùi Hữu T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước nhưng được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002545 ngày 05/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, sang án phí để thi hành.

4. Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2018/HNGĐ-ST ngày 18/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:116/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về