Bản án 115/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 115/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 106/2020/TLST-HS, ngày 05 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/QĐXXST-HS, ngày 23 tháng 10 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: VƯƠNG ĐÌNH C, sinh ngày 20/6/1992, tại tỉnh Tuyên Quang. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Tổ 6, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Cao Lan; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Vương Văn S (đã chết) và con bà Âu Thị T, sinh năm 1966.

Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ hai.

Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/6/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang - Có mặt.

2. Họ và tên: VƯƠNG VĂN H, sinh ngày 13/12/1997, tại tỉnh Tuyên Quang. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Xóm K, xã B, huyện S, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Cao Lan; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Vương Quốc L, sinh năm 1971 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974.

Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ hai. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/6/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Q - Có mặt.

3. Họ và tên: TRẦN VĂN N, sinh ngày 24/02/2003, tại tỉnh Tuyên Quang. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn M, xã T, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Cao Lan; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Trần Văn H, sinh năm 1980 và con bà Âu Thị N, sinh năm 1981.

Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ hai. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị cáo hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: TRẦN VĂN N là ông Trần Văn H, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn M, xã T, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Làm ruộng - Là bố đẻ của bị cáo Nhất - Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: TRN VĂN N là ông Vũ Trung K - Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV Quốc Cường, Đoàn Luật sư tỉnh Tuyên Quang - Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Ban Văn T, sinh năm 1991;

Nơi cư trú: Tổ 5, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang. (anh T có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do quen biết nhau từ trước nên VƯƠNG ĐÌNH C, cư trú tại tổ 6, phường Đ, thành phố Q và Ban Văn T, cư trú tại tổ 5, phường Đ, thành phố Q, vào sáng ngày 10/6/2020 cùng nhau ngồi ăn bánh mỳ tại khu vực chợ trung tâm phường Đ, thành phố Q. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, C gọi điện thoại cho VƯƠNG VĂN H, cư trú tại Xóm K, xã B, huyện S, tỉnh Tuyên Quang hỏi H biết chỗ nào bán ma túy đá không, sau đó H điều khiển xe mô tô hai bánh Biển kiểm soát 22B2-345.13 (xe mô tô này là của bà Nguyễn Thị L, mẹ của H) đến gặp C và T. H nói với C là H không biết chỗ nào bán ma túy, nhưng có TRẦN VĂN N, sinh ngày 24/02/2003, cư trú tại Thôn M, xã T, thành phố Q biết chỗ bán ma túy; sau đó tất cả cùng nhau về nhà C. H gọi điện thoại cho N, thì N nói có biết chỗ bán ma túy đá. C nói với H “Mày còn bao nhiêu tiền đưa đây”, H hiểu ý C nói là góp tiền để mua ma túy cùng nhau sử dụng, H đưa cho C 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). H, C, T thuê xe taxi đi đến khu vực Km11 Quốc lộ 2 Tuyên Quang đi Hà Nội, thuộc Thôn M, xã T, thành phố Q đón N, tất cả cùng nhau đến khu vực gần khách sạn Mường Thanh Tuyên Quang. C đưa cho N số tiền 2.400.000 đồng (Hai triệu bốn trăm nghìn đồng) để N đi mua ma túy (trong đó 600.000 đồng là của H và 1.800.000 đồng là của C); việc C, H góp tiền và nhờ N đi mua hộ ma túy không nói cho T biết. Lúc này H, C và T ngồi trên xe taxi đợi. N cầm tiền đi vào một ngõ nhỏ gần khách sạn Mường Thanh mua của một người đàn ông (theo N khai tên là G, không biết họ tên thật, không biết địa chỉ) được 01 gói nhỏ Methamphetamine bọc ngoài bằng giấy ăn, buộc bằng dây nịt màu đen. Khi mua được Methamphetamine thì C, H, Tvà N cùng nhau đi xe taxi về nhà C, trên đường đi N đưa cho C gói nhỏ Methamphetamine vừa mua được và N xin đi cùng để sử dụng ma túy; sau đó C đưa cho H gói nhỏ Methamphetamine, H cất vào túi quần đang mặc; khi đến khu vực Km11 Quốc lộ 2 Tuyên Quang đi Hà Nội, thì N xuống lấy xe mô tô đi về nhà C. Khi về đến nhà C, thì H đưa lại gói nhỏ Methamphetamine cho C. C cất vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long cất giấu trong người và mang theo bộ coóng (dụng cụ để sử dụng ma túy gồm 01 chai nhựa màu vàng nhãn hiệu C2 trên nắp chai có gắn 01 ống nhựa màu đen, trắng và 01 ống thủy tinh màu trắng, một đầu ống thủy tinh là hình cầu tròn có lỗ thủng) tất cả cùng nhau đi xe máy của H và N đến thuê phòng 002 nhà nghỉ Thảo Tiên thuộc tổ 14, phường C, thành phố Q để sử dụng ma túy. C lấy bộ coóng ra rồi đổ vào coóng một ít Methamphetamine để cùng nhau sử dụng, số còn lại một phần C để trong 01 túi nilon màu trắng đặt trên giường, một phần để trong một đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng đưa cho H, H dùng bật lửa đốt hàn kín hai đầu và cất vào trong ví da của H, mục đích để cùng nhau sử dụng tiếp; khi C, H, N và T đang cùng nhau sử dụng Methamphetamine bằng hình thức đốt hít vào cơ thể thì bị Tổ công tác Công an thành phố Q kiểm tra hành chính tại phòng 002 nhà nghỉ Thảo Tiên phát hiện và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 15 giờ cùng ngày, thu giữ 01 túi Methamphetamine trên giường (ký hiệu M1), H tự giác giao nộp 01 ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, bên trong chứa Methamphetamine cất giấu trong ví da của H (ký hiệu M2).

Tại Kết luận giám định số 495/GĐKTHS ngày 12/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận:

- Mẫu vật thu giữ trong phong bì M1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,177g (Không phẩy một bẩy bẩy gam).

- Mẫu vật thu giữ trong phong bì M2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,185g (Không phẩy một tám năm gam).

Tổng khối lượng là 0,362g (Không phẩy ba sáu hai gam) Methamphetamine.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với C, H, T và N, kết quả: (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ: 02 (Hai) phong bì niêm phong ký hiệu lần lượt M1, M2 trên các mép dán có chữ ký của C, H, T, N, chữ ký của giám định viên và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong phong bì ký hiệu M1 có 0,157g Methamphetamine, bên trong phong bì ký hiệu M2 có 0,135g methamphetamine (số còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định); 01 chai nhựa màu vàng nhãn hiệu C2 trên nắp chai có gắn 01 ống nhựa màu đen, trắng và 01 ống thủy tinh màu trắng, một đầu ống thủy tinh là hình cầu tròn có lỗ thủng, là vật chứng của vụ án. Tạm giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu trắng đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen đã qua sử dụng, 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE màu bạc, đen BKS 22B2-345.13, 01 ví da màu ghi xám; tạm giữ của N 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 PLUS màu vàng đã qua sử dụng, 01 xe gắn máy nhãn hiệu ESPREO màu xanh, bạc BKS 22AA-060.29 đã qua sử dụng; tạm giữ của C 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen đã qua sử dụng. Ngày 02/7/2020 trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE màu bạc, đen BKS 22B2-345.13 cho chủ sở hữu hợp pháp Nguyễn Thị L; ngày 26/8/2020 trả lại 01 xe gắn máy nhãn hiệu ESPREO màu xanh, bạc BKS 22AA-060.29 cho chủ sở hữu hợp pháp Trần Thị H.

Tại Cơ quan điều tra, VƯƠNG ĐÌNH C, VƯƠNG VĂN H và TRẦN VĂN N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của C, H, N còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; Kết luận giám định; Lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản Cáo trạng số: 106/CT-VKSTP, ngày 05 tháng 10 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố VƯƠNG ĐÌNH C, VƯƠNG VĂN H và TRẦN VĂN N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo C, H, N tiếp tục khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để bản thân sử dụng chứ không bán cho ai, nhưng khi đang để ma túy loại Methamphetamine tại phòng nghỉ đã thuê thì bị phát hiện và bắt giữ. Các bị cáo có trực tiếp chứng kiến niêm phong và mở niêm phong bì ma túy đã thu giữ của các bị cáo.

Bị cáo C, H, N không có ý kiến gì về kết quả giám định phong bì đựng ma túy đã thu giữ của các bị cáo và không yêu cầu giám định lại; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố các bị cáo là đúng tội, không oan.

Người đại diện hợp pháp của các bị cáo TRẦN VĂN N là bà ông Trần Văn H trình bày tại phiên tòa: Việc bị cáo N cùng các bị cáo C, H tàng trữ trái phép chất ma tuý như thế nào tôi hoàn toàn không biết, không liên quan. Chỉ đến khi Công an phát hiện bắt giữ thông báo thì tôi mới biết bị cáo N đã cùng người khác tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tôi không có ý kiến gì về kết quả giám định phong bì đựng ma túy đã thu giữ của các bị cáo N, C, H và không yêu cầu giám định lại.

Người làm chứng Ban Văn T trình bày tại Bản tự khai và tại phiên toà: Tôi và VƯƠNG ĐÌNH C có quen biết nhau. Sáng ngày 10/6/2020 tôi và C cùng nhau ngồi ăn bánh mỳ tại khu vực chợ trung tâm phường Đ, thành phố Q, đến khoảng 11 giờ cùng ngày, C gọi điện thoại cho ai đó khoảng một lúc sau có một nam thanh niên tên là H đến nói chuyện gì đó với C tôi không biết. Sau đó một lúc tất cả cùng nhau đi xe taxi đến Thôn M, xã T, thành phố Q đón thêm một nam thanh niên tên là N đi cùng đến gần khách sạn Mường Thanh Tuyên Quang xe dừng lại thì N xuống xe đi đâu tôi không biết, một lúc sau N quay lại cùng 03 chúng tôi đi taxi về nhà C. Khi ở trong xe do tôi ngủ nên không biết C, H, N nói chuyện gì với nhau. Sau khi đến nhà C thì tất cả cùng nhau đi xe máy của H và N đến thuê phòng 002 nhà nghỉ Thảo Tiên thuộc tổ 14, phường C, thành phố Q nghỉ, tôi đi vào nhà vệ sinh rửa mặt một lúc quay ra đã thấy có bộ coóng dùng để sử dụng ma tuý bên trong đã có ma tuý, thấy vậy tôi cũng sử dụng bằng cách đốt ma tuý hút vào cơ thể mình, được khoảng 15 phút sau thì tổ công tác Công an thành phố Q đến kiểm tra, bắt giữ và niêm phong toàn bộ vật chứng; sau đó tiến hành xét nghiệm tìm chất ma tuý thì trong cơ thể tôi dương tính với ma tuý. Tôi khai nhận toàn bộ hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của mình. Ngoài ra tôi không biết gì khác.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C, VƯƠNG VĂN H và TRẦN VĂN N và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C, VƯƠNG VĂN H và TRẦN VĂN N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 38; 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; 38; 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo VƯƠNG VĂN H.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 38; 58;

91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo TRẦN VĂN N.

- Xử phạt: Bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C từ 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng đến 01 (Một) năm 05 (Năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16/6/2020.

- Xử phạt: Bị cáo VƯƠNG VĂN H từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/6/2020.

- Xử phạt: Bị cáo TRẦN VĂN N từ 09 (Chín) tháng đến 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Các bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với 03 bị cáo.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa chất ma túy loại Methamphetamine; 01 chai nhựa màu vàng nhãn hiệu C2 trên nắp chai có gắn 01 ống nhựa màu đen, trắng và 01 ống thủy tinh màu trắng, một đầu ống thủy tinh là hình cầu tròn có lỗ thủng, là vật chứng của vụ án.

+ Trả lại bị cáo H 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu trắng đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen đã qua sử dụng; 01 ví da màu ghi xám.

+ Trả lại bị cáo N 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 PLUS màu vàng đã qua sử dụng.

+ Trả lại bị cáo C 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen đã qua sử dụng.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo C, H, N; ông H, Luật sư K được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo C, H, N và người đại diện hợp pháp của bị cáo N là ông H không có ý kiến tranh luận gì với nội dung luận tội của Kiểm sát viên. Các bị cáo và ông H đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mức án nhẹ nhất.

Phần tranh luận của Luật sư Vũ Trung K là người bào chữa cho bị cáo N trình bày tại phiên toà: Căn cứ vào Biên bản sự việc, Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào lời khai của bị cáo có căn cứ chứng minh bị cáo Nhất phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố.

Xét thấy bị cáo N tại cơ quan điều tra và tại phiên toà thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, mới học hết lớp 8 phổ thông nên nhận thức còn hạn chế và bị cáo là dưới 18 tuổi phạm tội, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và áp dụng Điều 91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nhất mức án thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị tại phiên toà là có căn cứ pháp luật và phù hợp với tính chất, nội dung vụ án. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo N.

Đề nghị trả lại cho bị cáo N 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 PLUS, màu vàng đã qua sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; phù hợp với lời khai của người làm chứng; Kết luận giám định, nên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ ngày 10/6/2020, tại phòng 002 nhà nghỉ Thảo Tiên, thuộc tổ 14, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang. VƯƠNG ĐÌNH C, cư trú tại tổ 6, phường Đ, thành phố Q; VƯƠNG VĂN H, cư trú tại Xóm K, xã B, huyện S, tỉnh Tuyên Quang và TRẦN VĂN N, sinh ngày 24/02/2003, cư trú tại Thôn M, xã T, thành phố Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,362g (Không phẩy ba sáu hai gam) Methamphetamine. Mục đích các bị cáo tàng trữ để sử dụng. Các bị cáo C, H, N đã tàng trữ 0,362g (Không phẩy ba sáu hai gam) là thuộc trường hợp tàng trữ Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, truy tố VƯƠNG ĐÌNH C, VƯƠNG VĂN H và TRẦN VĂN N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Trong vụ án này VƯƠNG VĂN H, VƯƠNG ĐÌNH C và TRẦN VĂN N là đồng phạm phải chịu trách nhiệm với khối lượng 0,362g (Không phẩy ba sáu hai gam) Methamphetamine.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo C, H, N nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật; việc sử dụng ma tuý trái phép có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bản thân và kinh tế gia đình, gây mất trật tự ở địa phương, góp phần làm gia tăng tệ nạn sử dụng trái phép chất ma tuý ở địa phương, nhưng các bị cáo vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma tuý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng do lỗi cố ý, nên cần xử phạt các bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật và cần buộc cả 03 bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo cũng như phục vụ công tác phòng chống tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo C, H, N không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy các bị cáo C, H, N tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, nên cả 03 bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Ngoài ra bị cáo VƯƠNG VĂN H có ông nội là Vương Văn T là Liệt sỹ, nên đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ lu ật hình sự để áp dụng cho các bị cáo H.

[4] Về hành vi và vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp giản đơn. Do các bị cáo đều là người sử dụng ma tuý trái phép nên rủ nhau góp tiền mua ma tuý để sử dụng chung, chứ không tổ chức sử dụng ma tuý. Bị cáo C là người khởi xướng cho việc góp tiền đi mua ma tuý (C góp 1.800.000 đồng; H góp 600.000 đồng) và bị cáo N không góp tiền nhưng là người trực tiếp đi mua ma tuý và bị cáo N tự xin các bị cáo C, H được đi cùng để sử dụng ma tuý, nên bị cáo C giữ vai trò thứ nhất, bị cáo H giữ vai trò thứ hai và bị cáo N giữ vai trò thứ ba để xem xét khi lượng hình đối với từng bị cáo.

[5] Về độ tuổi của các bị cáo khi phạm tội: Bị cáo C, bị cáo H khi phạm tội đều là người trên 18 tuổi. Bị cáo N tính đến ngày phạm tội và ngày xét xử sơ thẩm là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nên bị cáo N được áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự.

Do vậy, xử phạt bị cáo C, H, N mức án như Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, đề nghị tại phiên tòa là phù hợp và có căn cứ pháp luật.

Bị cáo C, H không có tài sản; bị cáo N là người dưới 18 tuổi và không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với cả 03 bị cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Về biện pháp tư pháp: 01 (Một) phong bì đựng ma túy loại Methamphetamine đã niêm phong; 01 chai nhựa màu vàng nhãn hiệu C2 trên nắp chai có gắn 01 ống nhựa màu đen, trắng và 01 ống thủy tinh màu trắng, một đầu ống thủy tinh là hình cầu tròn có lỗ thủng. Xét thấy đây là vật cấm lưu hành trái phép, nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với bà Nguyễn Thị L (mẹ đẻ của H) là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô BKS 22B2-345.13 đã giao xe cho H đi sửa và chị Trần Thị H (chị gái ruột của N) là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe gắn máy BKS 22AA-060.29, đã cho N mượn xe nhưng không biết việc H và N tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 02/7/2020 và ngày 26/8/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Q đã trả lại xe mô tô cho bà Nguyễn Thị L và chị Trần Thị H là có căn cứ pháp luật, nên không xem xét, giải quyết theo quy định.

Về 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu trắng đã qua sử dụng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen đã qua sử dụng; 01 ví da màu ghi xám là tài sản của bị cáo H. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 PLUS màu vàng đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo N. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo C. Xét thấy, những chiếc điện thoại di động này không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, nên trả lại cho bị cáo H, N, C theo quy định.

[7] Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 10/6/2020 của H, N, T và C.

Công an phường Đ, thành phố Q xử phạt hành chính tại Quyết định số 0002584, số 0002585, 0002586, 0002587 cùng ngày 07/7/2020, hình thức phạt tiền 750.000 đồng đối với H, C, T; phạt tiền 375.000 đồng đối với N là có căn cứ pháp luật, nên không xem xét, giải quyết.

[8] Đối với người đàn ông theo N khai nhận tên G là người đã bán ma tuý loại Methamphetamine cho N, nhưng không biết họ tên thật, địa chỉ nên không có căn cứ để xem xét, giải quyết theo quy định.

[9] Đối với Ban Văn T chỉ là người cùng sử dụng trái phép chất ma túy cùng với 03 bị cáo. T không biết việc C, H góp tiền và nhờ N đi mua hộ ma túy, nên không đủ căn cứ pháp lý để xử lý với vai trò đồng phạm theo quy định.

[10] Bà Nguyễn Thị L (mẹ đẻ của H) là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô BKS 22B2-345.13 đã giao xe cho H đi sửa và chị Trần Thị H (chị gái ruột của N) là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe gắn máy BKS 22AA-060.29, đã cho N mượn xe nhưng không biết việc H và N tàng trữ trái phép chất ma túy, nên không đề cập xử lý theo quy định của pháp luật.

[11] Ý kiến bào chữa của Luật sư Vũ Trung K là người bào chữa cho bị cáo TRẦN VĂN N cho rằng cáo N là người dân tộc thiểu số, mới học hết lớp 8 phổ thông nên nhận thức còn hạn chế là không phù hợp với sự phát triển của môi trường sinh sống và nhận thức của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận theo quy định. Ngoài ra các nội dung khác của người bào chữa cho bị cáo N đã đề nghị là có căn cứ pháp lý, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo C, H, N; ông H, Luật sư K được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: - Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 38; 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C.

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; 38; 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo VƯƠNG VĂN H.

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 38; 58; 91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo TRẦN VĂN N.

* Tuyên bố: Bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C, bị cáo VƯƠNG VĂN H và bị cáo TRẦN VĂN N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

* Xử phạt:

+ Bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16/6/2020.

+ Bị cáo VƯƠNG VĂN H 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/6/2020.

+ Bị cáo TRẦN VĂN N 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (Một) phong bì niêm phong, bên ngoài mặt trước có ghi “Tang vật theo QĐTC số 141/QĐ ngày 10/6/2020 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Q giám định ngày 10/6/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Ban Văn T, VƯƠNG ĐÌNH C, VƯƠNG VĂN H, TRẦN VĂN N, thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,292g Methamphetamine (số còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định). 01 (Một) chai nhựa màu vàng nhãn hiệu C2 trên nắp chai có gắn 01 (Một) ống nhựa màu đen, trắng và 01 (Một) ống thủy tinh màu trắng, một đầu ống thủy tinh là hình cầu tròn có lỗ hổng.

- Trả lại bị cáo VƯƠNG VĂN H 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X loại màn hình cảm ứng, màu trắng; số IMEI: 359412083934798, máy cũ đã qua sử dụng; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280, loại bàn phím, màu đen số IMEI: 359044/04/571220/0, máy cũ đã qua sử dụng; 01 (Một) ví da màu ghi xám dạng ví gấp kích thước một mặt là (13x10)cm, mặt trong có chữ “Cappiano Itali” (ví đã qua sử dụng, trong ví không có đồ vật, tài sản gì).

+ Trả lại bị cáo TRẦN VĂN N 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 PLUS loại màn hình cảm ứng, màu vàng, số IMEI: 354383064286570, máy cũ đã qua sử dụng.

+ Trả lại bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280 loại bàn phím, màu đen, số IMEI: 355862/01/610961/7, máy cũ đã qua sử dụng.

Tình trạng vật chứng và tài sản trên như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Q với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang lập ngày 09/10/2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo VƯƠNG ĐÌNH C, bị cáo VƯƠNG VĂN H và bị cáo TRẦN VĂN N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

- Bị cáo C, H, N; ông H và Luật sư K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:115/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về