Bản án 115/2019/HNGĐ-ST ngày 21/10/2019 về ly hôn giữa chị H, anh C

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 115/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/10/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H, ANH C

Ngày 21 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 469/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, con chung”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2019/QĐXX-ST ngày 27 tháng 9 năm 2019, giữa:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H sinh năm 1984 (có mặt)

Bị đơn: Anh Bế Văn C sinh năm 1979 (có mặt)

Đu địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/8/2019 và trong các bản tự khai, biên bản ghi lời khai chị Bùi Thị H là nguyên đơn trình bày: Chị kết hôn với anh C năm 2006, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện L, tỉnh Bắc Giang trên cơ sở được tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, cưới xong chị và anh Cường về chung sống với nhau ở thôn Đ, xã Vô T, huyện L. Đến tháng 11/2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống và phát triển kinh tế gia đình, từ đó vợ chồng không bảo được nhau, việc của ai người đó làm, vợ chồng cũng chấm dứt mọi quan hệ tình cảm từ năm 2015. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không xây dựng hạnh phúc được với nhau chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, Bế Thị Ngọc Diệu sinh ngày 09/4/2016. Hiện cháu đang ở với chị, cháu phát triển bình thường, nay ly hôn chị đề nghị được nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu anh Cường cấp dưỡng.

Về tài sản, công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay chị vẫn giữ nguyên yêu cầu trên.

Bị đơn anh Bế Văn Cường trình bày trong các bản tự khai, biên bản ghi lời khai và tại phiên tòa: Việc chị Huệ trình bày với Tòa án về thời gian đăng ký kết hôn, quá trình chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị Huệ là hoàn toàn đúng. Nay chị Huệ xin ly hôn anh, anh hoàn toàn nhất trí.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, Bế Thị Ngọc Diệu sinh ngày 09/4/2016. Hiện cháu đang ở với chị và anh Cường, cháu phát triển bình thường, nay ly hôn anh đề nghị được nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu chị Huệ cấp dưỡng.

Về tài sản, công nợ: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay anh vẫn giữ nguyên yêu cầu trên.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, chấp hành nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử vụ án và căn cứ vào các Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí, tuyên xử:

Về quan hệ vợ chồng: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị Huệ và anh Bế Văn Cường.

Về nuôi con chung: Giao chị Bùi Thị Huệ trực tiếp nuôi con là Bế Thị Ngọc Diệu sinh ngày 09/4/2016. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn anh Cường được quyền thăm nom con chung, chị Huệ không được cản trở anh Cường thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Bùi Thị Huệ phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của KSV, HĐXX nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lục Nam đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho các đương sự. Tại phiên tòa chị Huệ, anh Cường đều có mặt. Căn cứ vào Điều 227; Điều 228 BLTTDS, HĐXX đưa vụ án ra xét xử.

[2] Về nội dung: Chị Bùi Thị Huệ kết hôn với anh Bế Văn Cường ngày 16/3/2006 trên cơ sở tự nguyện hợp pháp. Cưới xong chị Huệ về chung sống với anh Cường ngay và hòa thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong phát triển kinh tế gia đình dẫn đến vợ chồng không quan tâm gì đến nhau, không bảo được nhau, việc của ai người đó làm, vợ chồng sống không có hạnh phúc, chị Huệ và anh Cường đã chấm dứt mọi quan hệ tình cảm với nhau từ năm 2015. Nay cả chị Huệ và anh Cường đều xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Huệ đề nghị xin được ly hôn, anh Cường cũng nhất trí nên HĐXX công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Huệ với anh Cường là phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, Bế Thị Ngọc Diệu sinh ngày 09/4/2016. Hiện cháu ở với chị Huệ, anh Cường, phát triển bình thường. Nay ly hôn cả chị Huệ và anh Cường đều có nguyện vọng yêu cầu được nuôi cháu Diệu. Xét thấy yêu cầu của các đương sự là chính đáng, nhưng để đảm bảo phát triển tốt cho cháu, hiện tại chị Huệ có công ăn việc làm ổn định, có điều kiện chăm sóc, nuôi cháu tốt, nay cần giao cho chị Huệ được trực tiếp nuôi. Chị Huệ không yêu cầu anh Cường cấp dưỡng nuôi con, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn anh Cường được quyền thăm nom con chung, chị Huệ không được cản trở anh Cường thực hiện quyền này.

[4] Về tài sản, công nợ: Chị Huệ, anh Cường không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Huệ phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí, tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị Huệ và anh Bế Văn Cường.

2. Về nuôi con chung: Giao chị Bùi Thị Huệ trực tiếp nuôi con là Bế Thị Ngọc Diệu sinh ngày 09/4/2016. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn anh Cường được quyền thăm nom con chung, chị Huệ không được cản trở anh Cường thực hiện quyền này.

3.Về án phí: Chị Bùi Thị Huệ phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị Huệ đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Nam ngày 23/8/2019 theo biên lai thu số AA/2017/0004251. Chị Huệ đã nộp đủ.

Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2019/HNGĐ-ST ngày 21/10/2019 về ly hôn giữa chị H, anh C

Số hiệu:115/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về