TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 115/2018/HS-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 111/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Trần Văn H , sinh năm 1988, tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn 7, xã T , huyện T, thành phố Hải Phòng; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; con ông Trần Văn S và bà Lê Thị C ; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 27/7/2018 đến ngày 02/8/2018 chuyển tạm giam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 10 phút ngày 27 tháng 7 năm 2018, Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Thủy Nguyên kết hợp với Công an xã T làm nhiệm vụ tại khu vực thôn 4B, xã T, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng phát hiện Trần Văn H có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an thu tại túi quần phía trước bên trái của H 03 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy), 01 điện thoại di động gắn số sim 0966273480 và 01 xe mô tô Biển kiểm soát 16 R1-9359. Tổ công tác đã đưa H cùng vật chứng về trụ sở Công an xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Bản Kết luận giám định số 427/KLGĐ ngày 29/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 03 gói giấy thu của Trần Văn H là ma túy, có khối lượng 0,2083 gam, là loại Heroine.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn H khai nhận: Do nghiện ma túy nên H thường xuyên sang khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khoảng 08 giờ ngày 27/7/2018, khi H đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Trần Văn T , sinh năm 1991 ở thôn 7, xã T, huyện T , Hải Phòng gọi đến bảo H ra khu vực ngã ba đường vào khu Công nghiệp VSIP, H đồng ý. H mượn xe mô tô biển kiểm soát 16R1-9359 của Trần Văn H1 (là em ruột H) để đến điểm hẹn gặp T . Tại đây, T đưa cho H số tiền 220.000 đồng và bảo H đi mua 200.000 đồng ma túy về sử dụng, còn số tiền 20.000 đồng để đổ xăng, H đồng ý. H điều khiển xe mô tô sang đường tàu nội thành Hải Phòng mua của một người phụ nữ không quen biết 03 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H cất giấu vào túi quần phía trước bên trái rồi điều khiển xe mô tô về nhà. Khi H điều khiển xe đến khu vực thôn 4B, xã T, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng như nội dung nêu trên.
Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong chứa số ma túy còn lại sau giám định và 01 chiếc điện thoại gắn sim 0966273480. Đối với xe mô tô biển kiểm soát 16R1-9359 thu giữ của H , tài liệu điều tra xác định thuộc sở hữu của anh Trần Văn H1. Anh H1 không biết việc H mượn xe đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh H1.
Trong vụ án này, Trần Văn T không thừa nhận việc đưa số tiền 220.000 đồng cho H đi mua ma túy. Tài liệu điều tra xác định ngoài lời khai của H không có tài liệu chứng cứ nào khác. Tiến hành xác minh, xác định hiện Trần Văn T không có mặt tại địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên tách ra, điều tra làm rõ xử lý sau.
Bản Cáo trạng số 126/CT-VKS ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố Trần Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 24 đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa số ma túy còn lại sau giám định; tiếp tục tạm giữ 01 chiếc điện thoại gắn sim 0966273480 để đảm bảo thi hành án. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Bị cáo Trần Văn H nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã nêu, lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2]. Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn H khai cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng với hành vi mà bị cáo thực hiện. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác đã được công bố, thẩm tra công khai tại phiên tòa. Tại bản Kết luận giám định số 427/KLGĐ ngày 29/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 03 gói giấy thu của Trần Văn H là ma túy, có khối lượng 0,2083 gam, là loại Heroine. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, vi phạm các chính sách pháp luật về phòng chống ma túy, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa, hạnh phúc gia đình và sức khỏe của người khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4]. Về phần hình phạt: Căn cứ vào mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào sự thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải của bị cáo trong suốt quá trình điều tra và tại phiên tòa, có thể áp dụng mức hình phạt tù trên mức khởi điểm của khung hình phạt tù là thỏa đáng. Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: 01 phong bì niêm phong số 427/2018/PC 54 ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen bên trong gắn sim số 0966273480 đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo nên trả lại cho bị cáo sử dụng, tuy nhiên bị cáo còn phải thi hành tiền án phí hình sự sơ thẩm nên tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7]. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo Trần Văn H 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 27 tháng 7 năm 2018.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 427/2018/PC 54 ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định. Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen bên trong gắn sim số 0966273480 đã qua sử dụng để đảm bảo thi hành án (Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29 tháng 10 năm 2018 và phiếu nhập kho số NK2019/09 ngày 29 tháng 10 năm 2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Trần Văn H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Trần Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 115/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 115/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về