Bản án 115/2017/HNGĐ-ST ngày 17/10/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨNG LIÊM, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 115/2017/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 17 tháng 10 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 461/2017/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2017 về “Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 210/2017/QĐXX-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T – sinh năm 1986 (có mặt)

Nơi cư trú: ấp T, xã H, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

2. Bị đơn: Anh Lê Quốc B – sinh năm 1986 (có mặt)

Nơi cư trú: ấp P, xã H, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 6 năm 2017 và những lời khai khác có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày:

Hôn nhân giữa chị và anh Lê Quốc B do tự tìm hiểu quen biết rồi đi đến hôn nhân, được gia đình hai bên đồng ý có tổ chức lễ cưới vào ngày 28 tháng 3 năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long ngày 12 tháng 3 năm 2012. Sau ngày cưới vợ chồng sống chung gia đình chồng tại ấp P, xã H, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Đến tháng 3 năm 2013 vợ chồng trở về gia đình cha mẹ ruột của chị tại ấp T, xã H, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long cất nhà tạm trên đất của cha mẹ ruột cho mượn để chăn nuôi sinh sống. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng từ khi về cha mẹ ruột chị sinh sống thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn hay cãi vã nhau. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do anh B cờ bạc đá gà không lo làm ăn, chị khuyên can anh nhiều lần nhưng anh không sửa đổi. Tình trạng mâu thuẫn vợ chồng từ năm 2013 đến nay không cải thiện được thời gian gần đây anh B thường hay ghen tuông vô căn cứ. Chị và anh B không còn sống chung từ ngày 22 tháng 6 năm 2017 đến nay.

Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Lê Quốc B.

- Con chung: Trong đời sống chung vợ chồng anh chị không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nợ chung phải thu, phải trả: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị không còn yêu cầu nào khác.

* Theo bảng khai ý kiến ngày 06 tháng 7 năm 2017 và những lời khai khác có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên toà bị đơn anh Lê Quốc B trình bày:

- Về mối quan hệ hôn nhân: Anh B thống nhất theo lời trình bày của chị T về mối quan hệ hôn nhân hình thành, thời gian chung sống, hôn nhân có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng có cãi vã nhau. Anh và chị T không còn sống chung từ tháng 6 năm 2017 đến nay.

Nay đối với yêu cầu xin ly hôn của chị T thì anh không đồng ý ly hôn do anh còn thương vợ anh yêu cầu được đoàn tụ.

- Con chung: Trong đời sống chung vợ chồng anh chị không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nợ chung phải thu, phải trả: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài liệu, chứng cứ trong vụ án:

Nguyên đơn đã nộp: Đơn khởi kiện ngày 15 tháng 6 năm 2017; giấy chứng minh nhân dân bản sao; sổ hộ khẩu bản sao; giấy chứng nhận kết hôn; đơn xin xác nhận đăng ký hộ khẩu thường trú của bị đơn Lê Quốc B, quyết định đình chỉ số: 57/2017/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2017.

Bị đơn đã nộp: bảng khai ý kiến ngày 06 tháng 7 năm 2017.

Ngoài ra đương sự không còn yêu cầu nào khác giữ nguyên quan điểm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu và các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Mối quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Lê Quốc B là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Hôn nhân của anh chị do tự tìm hiểu quen biết có tổ chức lễ cưới vào ngày 28 tháng 3 năm 2012 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long ngày 12 tháng 3 năm 2012. Theo lời trình bày của chị T thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn do khi về bên gia đình cha mẹ ruột chị sinh sống thì vợ chồng thường hay cãi vã do anh B cờ bạc đá gà không lo làm ăn, chị T khuyên can anh nhiều lần nhưng anh B không sửa đổi, thời gian gần đây anh B thường hay ghen tuông vô cớ. Theo anh B trình bày thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng có cãi vã nhau không tin tưởng lẫn nhau. Hiện nay anh chị không còn sống chung. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được hơn nữa chị T đã một lần rút đơn ly hôn để tạo điều kiện vợ chồng đoàn tụ nhưng không hạnh phúc được nên việc chị T yêu cầu ly hôn với anh B là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Đối với yêu cầu của anh B không đồng ý ly hôn với chị T nhưng từ khi mâu thuẫn vợ chồng xảy ra thì anh B không có phương thức nào để vợ chồng đoàn tụ được nên việc anh yêu cầu đoàn tụ là không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Lê Quốc B thống nhất xác định anh chị không có con chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Miễn xét.

[3] Tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Lê Quốc B thống nhất xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Miễn xét.

[4] Các khoản nợ phải thu, phải trả: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Lê Quốc B thống nhất xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Miễn xét.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị Thanh T nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 và Điều 3, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

* Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thanh T.

[1] Về mối quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn với anh Lê Quốc B.

[2] Con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Lê Quốc B thống nhất xác định anh chị không có không yêu cầu Tòa án giải quyết. Miễn xét.

[3] Tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Lê Quốc B thống nhất xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Miễn xét.

[4] Nợ chung phải thu, phải trả: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Lê Quốc B thống nhất xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Miễn xét.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị Thanh T nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số N0 0008075 ngày 22 tháng 6 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vũng Liêm. Chị T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ sau ngày tuyên án. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử lại phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2017/HNGĐ-ST ngày 17/10/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:115/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về