Bản án 114/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội mua bán ,tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 114/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN ,TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 92/2021/TLST-HS ngày 07/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2021/QĐXXST-HS ngày 12/4/2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê V. Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 14 tháng 02 năm 1987. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khối 19, phường H, thành phố Vinh, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Trình độ văn hoá: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Lê Hữu Đ, sinh năm 1959 và con bà: Trần Thị H, sinh năm 1960; Vợ, con: Chưa có. Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 19/11/2003 Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 18 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thi hành xong ngày 22/01/2005.

- Ngày 28/8/2008 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã họi II N thời gian 12 tháng. Thi hành xong vào ngày 22/7/2009.

- Ngày 07/11/2012 Công an phường L, thành phố Vinh xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Thi hành xong ngày 16/11/2012.

- Ngày 29/9/2015 Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 27 (Hai mươi bảy) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thi hành xong vào ngày 28/4/2017.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2021 đến nay hiện tang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2. Họ và tên: Trần Nhân T. Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 15 tháng 3 năm 1984. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khối 16, phường L, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Ngọc L, sinh năm 1952 và con bà: Ngô Thị T, sinh năm 1957; Vợ: Lê Thị Thanh V, sinh năm 1982, con: Chưa có. Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: - Ngày 21/6/2007 Công an thành phố V xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc” số tiền 500.000 đồng.

- Ngày 25/3/2008 Tòa án nhân dân tỉnh N xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thi hành xong vào ngày 02/5/2008.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2021 đến nay hiện tang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Ngô Thị Thu, sinh năm 1957. Địa chỉ: Khối 16, phường L, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

2. Bà Trần Thị H, sinh năm 1960. Địa chỉ: Khối 19, phường H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 20 phút ngày 13/01/2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy, Trần Nhân T đã gọi điện thoại cho Lê V để hỏi mua 200.000 đồng ma túy heroine. Lê V đồng ý và hẹn gặp Trần Nhân T ở khu vực chợ Cửa Bắc, thuộc phường H, thành phố Vinh để giao dịch. Trần Nhân T điều khiển xe máy nhãn hiệu Wave anpha màu đen bạc, Biển kiểm soát 66L1-115.32 đến trước nhà số 01, hẻm 1, ngõ 01 đường L, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thì gặp V đang đứng chờ. T đưa 200.000 đồng cho Lê V thì V đưa lại cho 01 (một) gói bên ngoài bọc bằng giấy báo màu đỏ thẫm, bên trong là ma túy Heroine. Trần Nhân T cầm gói ma túy trong tay rồi đi về thì ngay lúc đó bị Tổ công tác Công an phường L, thành phố Vinh phát hiện, kiểm tra, thu giữ trong lòng bàn tay trái của Trần Nhân T 01 (một) gói nhỏ bên ngoài bọc bằng giấy báo màu đỏ thẫm, bên trong chất cục bột màu trắng. Đồng thời Tổ công tác đã bắt giữ Lê V, thu giữ trong túi áo bên trái của Lê V 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) cùng toàn bộ vật chứng ở trên, niêm phong lại và dẫn giải các đối tượng về trụ sở Công an phường L, thành phố Vinh để lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Ngày 13/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê V phát hiện, thu giữ 01 (một) gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy chống ẩm bao thuốc lá màu vàng, bên trong chứa chất cục bột màu trắng (nghi là ma túy Heroine). Theo Lê V khai nhận, gói ma túy bán cho Trần Nhân T và gói ma túy bị Công an thu giữ nơi ở của Lê V đều mua của người đàn ông tên H (Vinh không rõ lai lịch, địa chỉ) vào ngày 12/01/2021 với giá 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng) tại khu vực nhà văn hóa Lao động tỉnh N Sau đó V đã sử dụng số ma túy trên và chia thành hai gói để bán, gói thứ nhất bán cho Trần Nhân T với giá 200.000 đồng, gói thứ hai V cất giấu ở giường ngủ của Vtại nhà mục đích ai hỏi mua thì bán nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan Công an thu giữ.

Ngày 13/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và ra quyết định trưng cầu giám định ngày 14/01/2021.

Tại Kết luận giám định số 189/KL-PC09 (Đ2-MT) và Kết luận giám định số 190/KL-PC09 (Đ2-MT) cùng ngày 18/01/2021 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

- Mẫu chất cục bột màu trắng thu giữ của Trần Nhân T và Lê V gửi tới giám định là ma túy (Heroine). Chất cục bột màu trắng thu giữ của Trần Nhân T và Lê V có khối lượng là 0,180 gam (không phẩy một trăm tám mươi gam).

- Mẫu chất cục bột màu trắng thu giữ của Lê V gửi tới giám định là ma túy (Heroine). Chất cục bột màu trắng thu giữ của và Lê V có khối lượng là 0,080 gam (không phẩy không trăm tám mươi gam).

Vật chứng của vụ án: 01 (một) gói ma túy (Heroine) có khối lượng 0,180 gam, sau khi lấy mẫu giám định còn 0,080 gam và vỏ giấy niêm phong, được niêm phong lại; 01 (một) gói ma túy (Heroine) có khối lượng 0,080 gam, sau khi lấy toàn bộ mẫu giám định còn vỏ giấy niêm phong, được niêm phong lại; Một điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280, màu xanh thu giữ của Trần Nhân T; Một điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, màu vàng thu giữ của Lê V. Hiện các vật chứng này đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

- Số tiền 200.000 đ (Hai trăm ngàn đồng) thu giữ của Lê V hiện đang bảo quản tại Kho bạc nhà nước tỉnh Nghệ An.

Đối với 01 (một) xe máy Wave anpha BKS 66L1-115.32 thu của Trần Nhân T, Cơ quan cảnh sát điều tra xác định chủ sở hữu là bà Ngô Thị T và 01 (một) xe máy Wave anpha BKS 37B2-816.61 thu của Lê V, Cơ quan cảnh sát điều tra xác định chủ sở hữu là bà Trần Thị H. Bà T và bà V đều không biết việc T và Vinh sử dụng xe máy của mình vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã trả lại xe máy cho bà T và bà H. Bà T và bà H đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Cáo trạng số 132/CT-VKS-TPV ngày 07/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố để xét xử Lê V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự 2015 và Trần Nhân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu quan điểm về vụ án, giữ nguyên tội danh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Lê V. Đề nghị xử phạt Lê V từ 30 (Ba mươi) tháng tù đến 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Trần Nhân T. Đề nghị xử phạt Trần Nhân T từ 12 (Mười hai) tháng tù đến 15 (Mười lăm) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Về xử lý vật chứng: áp dụng điều 106 BLTTHS, điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy thu giữ của các bị cáo; Tịch thu sung quỹ nhà nước: Một điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280, màu xanh thu giữ của Trần Nhân T, một điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, màu vàng thu giữ của Lê V và số tiền 200.000 đồng thu giữ của Lê V. Áp dụng điều 136 BLTTHS, điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định buộc các bị cáo đều phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý với nội dung bản cáo trạng, luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh và không tranh luận gì. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên toà, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 13/01/2021, tại khu vực trước nhà số 1, ngõ số 01, đường L thuộc khối V, phường H, thành phố Vinh Trần Nhân T có hành vi cất giữ trái phép 0,180 gam (không phẩy một trăm tám mươi gam) Ma túy (Heroine) mới mua của Lê V 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) nhằm mục đích sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường L, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An bắt quả tang. Cùng thời điểm Tổ công tác bắt giữ Lê V về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, thu giữ trong túi áo bên trái của Lê V 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng). Cùng ngày 13/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã thi hành lệnh khám xét nơi ở của Lê V phát hiện, thu giữ 01 (một) gói nhỏ ma túy Heroine, có khối lượng 0,080 gam (không phẩy không trăm tám mươi gam). Lê V khai nhận gói ma túy ma túy bán cho Trần Nhân T và gói ma túy bị Công an thu giữ là của Vinh mục đích ai hỏi mua thì bán để kiếm lời. Hành vi của bị cáo Lê V đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự. Hành vi của Trần Nhân T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Hành vi của các bị cáo phạm vào loại tội nghiêm trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Ma túy là chất gây nghiện độc hại và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn sa vào con đường phạm tội. Các bị cáo đều có nhân thân xấu. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tình tiết giảm nhẹ thấy rằng trong quá trình điều tra, xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Trần Nhân T gia đình có công với cách mạng, bố của bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến, gia đình thờ cũng Liệt sỹ nên bị cáo Trần Nhân T được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo như mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo lao động tự do thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[5] Trong vụ án này theo lời khai của Lê V thì người đàn ông tên Hải đã bán ma túy cho bị cáo nhưng bị cáo không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể của Hải ở đâu nên cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở để xử lý.

[6]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của các bị cáo là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành và vỏ giấy niêm phong không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; Một điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280, màu xanh thu giữ của Trần Nhân T, Một điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, màu vàng thu giữ của Lê V do các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước; số tiền 200.000 đồng thu giữ của Lê V là tiên thu lợi bất chính cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 (một) xe máy Wave anpha BKS 66L1-115.32 thu của Trần Nhân T, Cơ quan cảnh sát điều tra xác định chủ sở hữu là bà Ngô Thị T và 01 (một) xe máy Wave anpha BKS 37B2-816.61 thu của Lê V, Cơ quan cảnh sát điều tra xác định chủ sở hữu là bà Trần Thị H. Do bà H và bà T đều không biết việc T và V sử dụng xe máy của mình vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã trả lại xe máy cho bà T và bà H. Quá trình điều tra bà T khai đã nhận lại tài sản của mình và không có ý kiến gì. Tại phiên tòa bà H trình bày đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

 [7]. Về án phí: các bị cáo đều phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê V phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" và bị cáo Trần Nhân T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Căn cứ vào khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê V 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13/01/2021.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Trần Nhân T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13/01/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Điều 47 Bộ luật hình sự:

-Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, trong chứa ma túy (Heroine), ghi thu giữ vật chứng của Lê V, Trần Nhân T.

-Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, bên trong chữa vỏ giấy niêm phong, ghi thu giữ vật chứng của Lê V.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280, màu xanh thu giữ của Trần Nhân T, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, màu vàng thu giữ của Lê V (Vật chứng trên hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 2021/175 ngày 13/4/2021).

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) thu giữ của Lê V theo Giấy nộp tiền vào Ngân sách nhà nước số 0015278, mã hiệu NAN112421 ngày 29/3/2021 của Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam chi nhánh Nghệ An. Vật chứng này hiện có tại Kho bạc nhà nước tỉnh Nghệ An.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Lê V, Trần Nhân T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ/

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội mua bán ,tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:114/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về