Bản án 114/2020/HSST ngày 22/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 114/2020/HSST NGÀY 22/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 109/2020/HSST ngày 15 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2020/QĐXX-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Đặng Nguyễn Thanh T, sinh năm 1982 tại Tp.H; Tên gọi khác: không; Nơi đăng ký thường trú: A6/32H ấp 1A, xã V, huyện B, Tp.H; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Đặng Văn T (chết) và bà Nguyễn Thị Kim Đ; Anh chị em ruột: 02 người, bị cáo là con thứ 02; Chồng: Nguyễn Hồng Đ (chết) Con: Đặng Nguyễn Thanh N, sinh năm 2004; Tiền án: không; Tiền sự: 01. Nhân thân: Ngày 14/6/2006, bị Tòa án nhân dân Tp.B, tỉnh Đ xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 30/8/2010, bị cáo T được đặc xá. Ngày 12/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh L tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 21/3/2015, bị cáo T chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 14/4/2017, bị Công an xã B đưa đi cai nghiện bắt buộc 18 tháng tại Trung tâm đào tạo việc làm Phú Nghĩa, tỉnh B. Ngày 14/10/2018, bị cáo T chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 09/01/2020 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Nguyễn Thanh T nghiện ma túy và bắt đầu bán ma túy từ đầu tháng 12/2019. Nguồn ma túy của T mua từ một người đàn ông (không rõ lai lịch) ở Quận 8. Cứ khoảng 02 tuần T mua 01 chỉ ma túy (tương đương 3.5 gram) với giá 4.000.000 đồng rồi phân nhỏ thành nhiều tép bán cho người nghiện với giá 100.000 đồng/tép. Khi T bán hết 01 chỉ ma túy thu được 7.000.000 đồng, thu lãi 3.000.000 đồng. Tính đến ngày bị bắt quả tang T đã bán hết 02 chỉ heroin, thu lãi tổng cộng 6.000.000 đồng.

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 09/01/2020, T đến Quận 8 mua 01 chỉ ma túy rồi về nhà phân thành 06 tép rồi bỏ vào hủ nhựa màu đen, số còn lại bỏ trong trong bịch nylon rồi hàn kín lại. Tất cả T giấu vào trong túi áo khoác bên phải của mình. Sau đó, T đi ra Bến xe An Sương đứng trước Ngân hàng Agribank chờ người nghiện đến mua ma túy thì bán. Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 09/01/2020 Bùi Hữu Đ đến gặp T hỏi mua ma túy 01 tép với giá 50.000 đồng. T đồng ý bán rồi nhận của Đ 50.000 đồng, đồng thời đưa cho Đ 01 tép ma túy thì bị Đội cảnh sát điều tra về ma túy Công an huyện H kết hợp cùng Công an xã B bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ của T gồm:

- 01 hủ nhựa màu đen bên trong có 05 đoạn ống hút nhựa chứa chất bột màu trắng qua giám định là Heroin khối lượng 0.2570g:

- 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng qua giám định là Heroin khối lượng 3.5396g:

- Số tiền 50.000 đồng:

- 01 hủ nhựa màu đen có chữ HALLSXS:

- 01 điện thoại di động hiệu Philips.

Vật chứng thu giữ của Đ gồm:

- 01 đoạn ống hút nhựa chứa chất bột màu trắng qua giám định là Heroin khối lượng 0.0519g:

- 01 điện thoại di động Samsung.

Tại bản Kết luận giám định số 181/KLGĐ ngày 16/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp.H kết luận:

- Gói 1: 01 đoạn ống nhựa được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ, chữ ký ký của Bùi Hữu Đ là ma túy ở thể rắn, ký hiệu m1 có khối lượng 0.0519g, loại Heroin.

- Gói 2: 05 đoạn ống hút nhựa chứa chất bột màu trắng được ký hiệu mẫu m2 là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0.2570g, loại Heroin.

- Gói 3: 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng là ma túy ở thể rắn được ký hiệu là m3, có khối lượng 3.5396g, loại Heroin.

Tổng trọng lượng ma túy thu giữ của Đặng Nguyễn Thanh T là 3.8485g, loại Heroin.

Tại Công an xã B và tại Công an điều tra huyện H, Đặng Nguyễn Thanh T đã thừa nhận hành vi nêu trên.

Đối với Bùi Hữu Đ là người nghiện mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khối lượng 0.0519g heroin thu giữ của Đ không đủ khối lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cơ quan điều tra giao Đ cho Công an xã B xử lý theo quy định.

Tại Bản cáo trạng số: 107/CT-VKS – HS ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, Tp.H đã truy tố bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố tại phiên tòa xác định: Căn cứ vào lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai tại phiên tòa hôm nay của bị cáo cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo T từ 03 năm đến 04 năm tù. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 10 triệu đồng để sung ngân sách nhà nước và buộc bị cáo T nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

Đối với vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 đoạn ống nhựa được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ, chữ ký ký của Bùi Hữu Đ là ma túy ở thể rắn, ký hiệu m1; 05 đoạn ống hút nhựa chứa chất bột màu trắng được ký hiệu mẫu m2; 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng là ma túy ở thể rắn được ký hiệu là m3 và 01 hủ nhựa màu đen có chữ HALLSXS.

Đối với 01 ĐTDĐ Philips thu giữ của Đặng Nguyễn Thanh T, 01 ĐTDĐ Samsung thu giữ của Bùi Hữu Đ là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy và số tiền 50.000 đồng là tiền dùng vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Tại phiên tòa, bị cáo T nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện H. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ nhất để bị cáo có cơ hội phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay qua phần xét hỏi và tranh tụng công khai, bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T khai nhận bị cáo là nghiện ma túy. Bị cáo thường liên lạc mua ma túy của một người đàn ông không rõ lai lịch ở Quận 8, Tp.H. Cứ khoảng 02 tuần bị cáo T mua 01 chỉ ma túy về phân thành tép nhỏ bán cho người nghiện. Tính đến ngày bị bắt bị cáo bán hết 02 chỉ ma túy thu lợi bất chính số tiền 6.000.000 đồng. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 09/01/2020 Bùi Hữu Đ đến gặp T mua 01 tép ma túy giá 50.000 đồng, khi Đ đang nhận ma túy, T đang nhận tiền thì bị Công an bắt quả tang và thu giữ vật chứng như Cáo trạng đã truy tố. Tại bản Kết luận giám định số 181/KLGĐ-H ngày 16/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp.H kết luận: Tổng trọng lượng ma túy thu giữ của Đặng Nguyễn Thanh T là 3.8485g, loại Heroin. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai và thừa nhận số ma túy này do bị cáo mua với mục đích về chia nhỏ bán lại kiếm lời và sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án; Do đó, bản Cáo trạng số: 107/CT-VKS – HS ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, Tp.H truy tố bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” có khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo T thuộc tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết việc hành vi mua bán trái phép chất ma túy là trái pháp luật nhưng vì bản thân lười lao động nên bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền về ma túy của Nhà nước như cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển… nhưng bị cáo vẫn quyết tâm thực hiện tội phạm và phạm tội một cách cố ý trực tiếp, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội. Mặt khác, bị cáo đã từng bị Tòa án xử phạt về hành vi liên quan đến ma túy; đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo không biết ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trái pháp luật do mình gây ra và cần phải có hình phạt nghiêm để có giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm tương tự.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét thêm về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để có hình phạt tương xứng.

Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân xấu: Ngày 14/6/2006, bị Tòa án nhân dân Tp.B, tỉnh Đ xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tôi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 30/8/2010, bị cáo T được đặc xá. Ngày 12/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh L tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 21/3/2015, bị cáo T chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 14/4/2017, bị Công an xã B đưa đi cai nghiện bắt buộc 18 tháng tại Trung tâm đào tạo việc làm Phú Nghĩa, tỉnh B. Ngày 14/10/2018, bị cáo T chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tình tiết tăng nặng: không có.

Với các tình tiết nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo T ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung, nhưng có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như đã nêu để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”, do đó, căn cứ khoản 2 Điều 35 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự Hội đồng xét xử quyết định phạt tiền bị cáo T số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước.

[6] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T thừa nhận thu lợi bất chính từ các lần bán ma túy với số tiền 6.000.000 đồng. Do đó, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần buộc bị cáo T nộp lại số tiền thu lợi bất chính để nộp vào ngân sách nhà nước.

[7] Về vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ 01 đoạn ống nhựa được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ, chữ ký ký của Bùi Hữu Đ là ma túy ở thể rắn, ký hiệu m1; 05 đoạn ống hút nhựa chứa chất bột màu trắng được ký hiệu mẫu m2; 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng là ma túy ở thể rắn được ký hiệu là m3 và 01 hủ nhựa màu đen có chữ HALLSXS không còn giá trị sử dụng, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 ĐTDĐ Philips thu giữ của Đặng Nguyễn Thanh T là phương tiện T dùng để liên lạc mua bán ma túy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 50.000 đồng thu giữ của T là tiền Đ dùng để mua ma túy từ T, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 01 ĐTDĐ Samsung thu giữ của Bùi Hữu Đ là phương tiện Đ dùng liên lạc mua ma túy của T, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự:

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1/. Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2020.

2/. Áp dụng các Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

 - Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn ống nhựa được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ, chữ ký ký của Bùi Hữu Đ là ma túy ở thể rắn, ký hiệu m1; 05 đoạn ống hút nhựa chứa chất bột màu trắng được ký hiệu mẫu m2; 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng là ma túy ở thể rắn được ký hiệu là m3 (ký hiệu 181/1, 181/2, 181/3) và 01 hủ nhựa màu đen có chữ HALLSXS:

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Philips và 01 điện thoại di động Samsung:

(Các vật chứng của vụ án do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn quản lý theo Lệnh nhập kho vật chứng số 73/LNK-CSĐT-MT ngày 11/3/2020 và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/6/2020).

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước đối với số tiền 50.000 đồng (theo Lệnh thanh toán đề ngày 28/5/2020 vào tài khoản số 6140401001000001, tên chủ tài khoản: Công an huyện Hóc Môn, tại Ngân hàng NN&PTNT CN Hóc Môn).

- Buộc bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T phải nộp lại số tiền 6.000.000 (sáu triệu) đồng do phạm tội mà có để sung vào ngân sách Nhà nước.

3/. Áp dụng khoản 2 Điều 35 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự:

- Buộc bị cáo Đặng Nguyễn Thanh T nộp phạt 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

4/. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5/. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2020/HSST ngày 22/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:114/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về