Bản án 114/2019/HNGĐ-ST ngày 14/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 114/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Trong ngày 14 tháng 5 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Trần VănThời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 247/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Tiết Kim Q – sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp 6, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N – sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp 6, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau

Tại phiên tòa, chị Q có mặt, anh N có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản hòa giải ngày 07/5/2019 và tại phiên tòa chị Tiết Kim Q trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh N sống chung năm 1999, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức hôn lễ nhưng không có đăng ký kết hôn. Hiện tại vợ chồng đã ly thân nhau. Xét thấy cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàn gắn được nên chị yêu cầu ly hôn với anh N.

Về con chung: Có hai người con chung là cháu Nguyễn Khánh D – sinh ngày 26/6/2002 và cháu Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 02/3/2000. Cháu Hảo đã trưởng thành, có cuộc sống riêng không yêu cầu tòa án giải quyết. Đối với cháu Duy, hiện cháu sống với chị Q. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Duy, Không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị xác định tự thỏa thuận với anh N, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị xác định không có.

Tại biên bản hòa giải ngày 07/5/2019 và tại phiên tòa, anh N xác định:

Về hôn nhân: Anh và chị Q sống chung năm 1999, hôn nhân do anh tự nguyên không ép buộc, có tổ chức hôn lễ nhưng không có đăng ký kết. Hiện tại vợ chồng đã ly thân nhau. Hiện anh không còn tình cảm với chị Q, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàn gắn được nên anh đồng ý ly hôn với chị Q.

Về con chung: Có hai con chung là cháu Nguyễn Khánh D – sinh ngày 26/6/2002 và cháu Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 02/3/2000. Hiện cháu Hảo đã trưởng thành, có cuộc sống riêng không yêu cầu tòa án giải quyết. Đối với cháu Duy, hiện cháu sống với chị Q. Anh thống nhất yêu cầu của nguyên đơn.

Về tài sản chung: Anh xác định tự thỏa thuận với chị Q, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh xác định không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn N có nơi trú tại ấp 6, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị Q khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh N, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Q là người khởi kiện, anh N là người bị kiện nên xác định tư cách đương sự chị Q là nguyên đơn, anh N là bị đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Năm 1999, chị Q và anh N sống chung với nhau là hoàn toàn tự nguyện, tuy nhiên không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên không có cơ sở công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Q và anh N. Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh N thống nhất với yêu cầu của chị Q, đồng thời hôn nhân có vi phạm về mặt hình thức nên không được công nhận là vợ chồng phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình. Tại phiên tòa, chị Q xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh N và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn với anh N. Trường hợp tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Q được ly hôn với anh N.

[3] Về con chung: Chị Q và anh N có 02 người con chung, cháu Nguyễn Khánh D – sinh ngày 26/6/2002 và cháu Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 02/3/2000. Hiện cháu Hảo đã trưởng thành có cuộc sống riêng nên không yêu cầu tòa án giải quyết. Riêng đối với cháu Duy hiện cháu đang sống cùng với chị Q. Tòa án có ghi nhận ý kiến cháu Duy và cháu có nguyện vọng sống với chị Q, chị Q và anh N thống nhất giao cháu Duy cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Duy cho chị Q tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của các bên và đúng với quy định của pháp luật.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị Q không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, đây là ý chí tự nguyện của chị Q nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Q và anh N xác định tài sản chung tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình, chị có nộp 300.000 đồng. Anh N không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 235, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tiết Kim Q về việc yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Tiết Kim Q và anh Nguyễn Văn N.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Khánh D – sinh ngày 26/6/2002 cho chị Tiết Kim Q trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Văn N không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Anh Nguyễn Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Tiết Kim Q phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình. Chị có nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002979 ngày 17 tháng 4 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu đối trừ, chị Tiết Kim Q không phải nộp tiếp.

Án xử công khai, chị Tiết Kim Q, anh Nguyễn Văn N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2019/HNGĐ-ST ngày 14/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:114/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về