TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁ THƯỚC, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 113B/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 19 tháng 09 năm 2019, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Bá Thước, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 98/2019/TLST-HNGĐ ngày 05/08/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/QĐXX-ST ngày 03/09/2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Lê Văn L; Sinh năm 1986 (vắng mặt).
Nơi cư trú: Thôn Đ T, xã Đ L, huyện B T, tỉnh T H.
Bị đơn: Chị Lê Thị L; Sinh năm 1989.
Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú cuối cùng: Thôn Đ T, xã Đ L, huyện B T, tỉnh T H.
Là người mất tích theo quyết định giải quyết việc dân sự số: 05/2019/QĐDS-ST ngày 11/7/2019.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Anh Lê Văn L và chị Lê Thị L tự do tìm hiểu và tự nguyện lấy nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ L ngày 22/12/2009. Anh L trình bày sau khi lấy nhau anh chị sống hạnh phúc. Đến ngày 27/12/2016 âm lịch (27 tết) chị L bỏ đi không để lại tin tức hay địa chỉ cho anh L và người thân, để lại hai con nhỏ cho anh L.
1 Anh Lê Văn L đã tìm kiếm tin tức của chị Lê Thị L khắp nơi qua người thân và bạn bè đều không có kết quả.
Tại Quyết định giải quyết việc dân sự số: 05/2019/QĐDS-ST ngày 11/07/2019 Tòa án nhân dân huyện B T đã tuyên bố chị Lê Thị L là người mất tích.
Nay anh Lê Văn L làm đơn khởi kiện có nguyện vọng xin ly hôn với chị Lê Thị L (là người mất tích).
Về con chung : Anh Lê Văn L và chị Lê Thị L có hai con chung là cháu Lê Anh K sinh ngày 23/8/2014 và cháu Lê Quốc A sinh ngày 25/7/2010. Anh Lê Văn L có nguyện vọng trực tiếp nuôi con chung không yêu cầu cấp dưỡng.
Về tài sản: Anh Lê Văn L trình bày không có tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung; Lê Văn L trình bày không có nợ chung.
Sau khi nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử anh Lê Văn L có đơn xin xử vắng mặt gửi cho Tòa án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS và thuộc thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS. Thẩm phán, thư ký và HĐXX đã thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định trình tự tố tụng của Bộ Luật tố tụng dân sự.
Việc anh Lê Văn L sau khi nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử có đơn xin xử vắng mặt Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án.
- Anh Lê Văn L và chị Lê Thị L tự do tìm hiểu, tự nguyện lấy có tự nguyện đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ L, huyện B T, tỉnh T H năm 2009 nên hôn nhân của anh chị hợp pháp.
Tình trạng hôn nhân: Chị Lê Thị L đã tự bỏ nhà đi từ tháng 12 năm 2016 đến nay. Tại Quyết định giải quyết việc dân sự số: 05/2019/QĐDS-ST ngày 11/07/2019 Tòa án nhân dân huyện Bá Thước đã tuyên bố chị Lê Thị L là người mất tích, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị và đã có hiệu lực pháp luật. Xét thấy hôn nhân giữa anh Lê Văn L và chị Lê Thị L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại hôn nhân chỉ còn trên danh nghĩa. Việc anh Lê Văn L khởi kiện xin ly hôn với chị Lê Thị L (là người mất tích) là có căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của anh Lê Văn L, xử cho anh Lê Văn L được ly hôn chị Lê Thị L.
Về con chung: Giao cho anh Lê Văn L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là hai cháu Lê Anh K sinh ngày 23/8/2014 và cháu Lê Quốc A sinh ngày 25/7/2010 cho đến khi thành niên. Anh Lê Văn L có nguyện vọng trực tiếp nuôi con chung không yêu cầu cấp dưỡng là hợp lý. Chị Lê Thị L biệt tích nên không có cơ sở xem xét về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị L.
Về tài sản: Anh Lê Văn L trình bày không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết, chị Lê Thị L là người mất tích nên HĐXX không có cơ sở xem xét.
Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 BLTTDS, điểm a khoản 5 Điều 27, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, anh Lê Văn L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào khoản 2 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
Xử cho anh Lê Văn L được ly hôn chị Lê Thị L.
2.Về con chung: Giao cho anh Lê Văn L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là hai cháu Lê Anh K sinh ngày 23/8/2014 và cháu Lê Quốc A sinh ngày 25/7/2010 cho đến khi thành niên. Anh Lê Văn L không yêu cầu cấp dưỡng.
Chị Lê Thị L có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 BLTTDS, điểm a khoản 5 Điều 27, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, anh Lê Văn L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh Lê Văn L đã nộp theo biên lai thu số: AA/2018/0005115 ngày 05 tháng 08 năm 2019 (anh Lê Văn L đã nộp đủ).
Án sơ thẩm vắng mặt anh Lê Văn L, vắng mặt chị Lê Thị L. Các đương sự có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết án sơ thẩm tại UBND xã Đ L, huyện B T, tỉnh T H nơi cư trú của anh Lê Văn L và nơi cư trú cuối cùng của chị Lê Thị L.
Bản án 113b/2019/HNGĐ-ST ngày 19/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 113b/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về