Bản án 113/2021/HS-ST ngày 16/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 113/2021/HS-ST NGÀY 16/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 141/2021/HSST ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đình M- sinh năm 1987, tại Hà Nội; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Đội 1, xã N, huyện T, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Trần Đình X và bà: Nguyễn Thị T (c); Vợ: Nguyễn Thanh T (Đã ly hôn), Có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không. Danh chỉ bản số 49 do Công an huyện Thanh Trì lập 08/01/2020. Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2021. Hiện đang bị tạm tại trại giam số 2; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 04/01/2021, Trần Đình M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu vàng BKS: 30Z6 - 4638 từ nhà ở Đội 1, thôn L, xã N, huyện T, Hà Nội đến khu vực đường P thuộc thôn Q, xã V, huyện T, Hà Nội để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, M gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, M cầm gói ma túy ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng, khi đi đến khu vực xóm 3, thôn Q, xã V, huyện T, Hà Nội thì bị tổ công tác Công an xã Vĩnh Quỳnh - Công an huyện Thanh Trì yêu cầu kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện và thu giữ tại lòng bàn tay trái của M 01 gói nilong bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, tại chỗ M khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy đá, M tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của M: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu vàng BKS: 30Z6 - 4638, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng đồng có sim số 0962836035. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong tang vật và đưa Trần Đình M cùng tang vật, phương tiện về trụ sở để xác minh, xử lý.

Xét nghiệm ma túy đối với Trần Đình M. Kết quả: Dương tính.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Trì đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với 01 gói nilong bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Đình M. Tại Bản kết luận giám định số 475/KLGĐ-PC09 ngày 12/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: "Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,243 gam". Cơ quan giám định đã sử dụng 0,024 gam trong tổng số 0,243 gam Methamphetamine đã thu giữ của M để làm mẫu giám định, còn lại 0,219 gam Methamphetamine hoàn lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Trì.

Quá trình điều tra, Trần Đình M khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai phù hợp với lời khai nhân chứng và các tài liệu chứng cứ thu thập được.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho M, M khai không biết tên thật và địa chỉ. Kết quả dẫn giải, M xác định được nơi mua ma túy tại khu vực đường P, cạnh ngõ 5, thôn Q, xã V, huyện T, Hà Nội nhưng không xác định được người đàn ông trên nên Cơ quan Điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu vàng BKS: 30Z6 - 4638 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng đồng có sim số 0962836035, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Trần Thị X (Sinh năm: 1990; HKTT: Đội 1, xã N, huyện T, Hà Nội). Chị X là em gái M, cho M mượn xe và điện thoại để làm phương tiện đi lại và liên lạc, không biết M sử dụng xe để đi mua ma túy. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Trì đã trao trả chiếc xe và chiếc điện thoại trên cho chị X, chị X nhận lại tài sản, không yêu cầu về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKSTT ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì đã truy tố Trần Đình M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Bị cáo M giữ nguyên lời khai, thừa nhận nội dung cáo trạng, tội danh mà VKS truy tố là đúng. Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đề nghị Toà án cho bị cáo được sự khoan hồng của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm ckhoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Trần Đình M mức án từ 14 tháng đến 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy tang vật là 0,219 gam ma túy loại Methamphetaminecòn lại sau giám định.

Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn phạt tiền.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo Trần Đình M đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Thanh Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 05 phút ngày 04/01/2021, tại khu vực xóm 3, thôn Q, xã V, huyện T, Hà Nội, Trần Đình M tàng trữ trái phép 0,243 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tang vật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước ta, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, làm hủy hoại sức khỏe. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do nghiện nên vẫn cố tình phạm tội. Do đó, cần phải có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội đồng thời giúp bị cáo cai nghiện.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, có thái độ ăn năn hối cải, nên cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét trong trường hợp này bị cáo không nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy 0,219 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định là tang vật vụ án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Trần Đình M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Trần Đình M 16 (Mười sáu) tháng tù.Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/01/2021.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên trong có 0,219 gam ma túy loại Methamphetamine bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Trần Đình M.

Tang vật nêu trên được lưu kho của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Trì theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25 tháng 3 năm 2021.

- Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331 khoản 1; Điều 332 và Điều 333; Điều 336; Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21 khoản 1 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cùng danh mục kèm theo.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2021/HS-ST ngày 16/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:113/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về