TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 113/2020/HS-ST NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 93/2020/HSST ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 100/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Bị cáo: LẠI THẾ S; Tên gọi khác: Không.
Sinh ngày: 24 tháng 10 năm 1974 tại tỉnh Hà Nam Nơi cư trú: phường X, thành phố L, tỉnh Lào Cai Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Bị cáo có vợ là Trần Hồng H (đã chết) và 01 con sinh năm 2001.
Con ông Lại Văn Đ và bà Nguyễn Thị Đ.
Tiền sự: Không; Tiền án: Không.
Nhân thân: Năm 2012, bị cáo Lại Thế S bị Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đến ngày 01/10/2012 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 10/9/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
2. Bị cáo: NGÀ VĂN H; Tên gọi khác: Không.
Sinh ngày: 17 tháng 12 năm 1990 tại huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Bình D và 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017.
Con ông Ngà Văn N và bà Lò Thị L.
Tiền sự: Không; Tiền án: Không.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 10/9/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ ngày 10/9/2020, bị cáo Ngà Văn H rủ bị cáo Lại Thế S góp tiền mua ma túy heroine để sử dụng, bị cáo Lại Thế S đồng ý. Bị cáo Lại Thế S và Ngà Văn H mỗi bị cáo góp 200.000, sau khi góp tiền, bị cáo Ngà Văn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 24T1-02056 chở bị cáo Lại Thế S lên khu vực tổ 07, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai tìm mua ma túy. Bị cáo Lại Thế S đi bộ hướng lên đồi gặp một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) mua được 04 gói ma túy heroine với giá 400.000 đồng và cùng bị cáo Ngà Văn H đi đến khu vực đường Đoàn Khuê, tổ 34, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tìm nơi để sử dụng, thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố Lào Cai kiểm tra và bắt giữ cùng vật chứng.
Tại kết luận giám định số 190/GĐMT ngày 14/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,19 gam chất bột khô, vón cục, màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin).
Cáo trạng số 106/CT-VKS-TPLC ngày 09/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai truy tố các bị cáo Lại Thế S, Ngà Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lại Thế S, Ngà Văn H phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lại Thế S từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Xử phạt bị cáo Ngà Văn H từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 0,12 gam ma túy Hêrôin còn lại sau giám định; 01 ví dả gia. Trả lại cho bị cáo Ngà Văn H 01 giấy phép lái xe, 01 chứng minh nhân dân mang tên Ngà Văn H. Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo của bị cáo Ngà Văn H để đảm bảo thi hành án.
Lời khai nhận tội của các bị cáo Lại Thế S, Ngà Văn H tại phiên toà phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, tang vật thu giữ và kết luận giám định.
Bị cáo Lại Thế S nói lời sau cùng: Không đề nghị gì;
Bị cáo Ngà Văn H nói lời sau cùng: Đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Ngày 10/9/2020, bị cáo Ngà Văn H rủ bị cáo Lại Thế S góp tiền mua ma túy để sử dụng, sau khi góp tiền bị cáo Lại Thế S, Ngà Văn H có hành vi đi mua ma túy và cùng nhau tàng trữ 0,19 gam ma túy Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Hành vi tàng trữ 0,19 gam ma túy Heroinecủa các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Đây là vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn, không có sự bàn bạc, phân công, không có sự câu kết chặt chẽ giữa các bị cáo. Xác định bị cáo Ngà Văn H là người khởi xướng việc góp tiền mua ma túy để sử dụng và trực tiếp cùng bị cáo Lại Thế S đi mua ma túy, nên bị cáo Ngà Văn H phải chịu trách nhiệm với vai trò chính trong vụ án. Bị cáo Lại Thế S, khi được bị cáo Ngà Văn H khởi xướng đã tiếp nhận ngay, góp 200.000đ và là người trực tiếp đi mua ma túy và cùng bị cáo Ngà Văn Htàng trữ trái phép chất ma túy, xác định bị cáo Lại Thế S là người đồng phạm với vai trò là người thực hành. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức và hiểu biết về pháp luật, bản thân là đối tượng sử dụng ma túy, mặc dù biết được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, để có ma túy sử dụng cho bản thân, các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Lào Cai, vì vậy cần phải xử lý các bị cáo nghiêm minh trước pháp luật, có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo Lại Thế S là người có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản đến nay đã được xóa án tích.
Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, mà các bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nhân thân của các bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo cần áp dụng hình phạt tù, có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có tài sản riêng, vì vậy Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[6] Về vật chứng vụ án: Đối với 0,12 gam ma túy Hêrôin còn lại sau giám định thuộc danh mục các chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.
[7] Đối 01 ví giả da màu đen bị cáo Ngà Văn H không có yêu cầu nhận lại, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo là tài sản của bị cáo Ngà Văn H không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên bị cáo còn phải thi hành khoản tiền án phí, vì vậy tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án. Trả lại cho bị cáo Ngà Văn H 01 giấy phép lái xe, 01 chứng minh nhân dân mang tên Ngà Văn Hùng.
Đối với chiếc xe nhãn hiệu Honda Wave, BKS 24T1-02056 các bị cáo đã sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Xác định chiếc xe trên là tài sản riêng của chị Nguyễn Thị Bình Dương, không liên quan gì đến hành vi phạm tội của các bị cáo, cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Dương là phù hợp.
[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lại Thế S, bị cáo Ngà Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Phạt bị cáo Ngà Văn H 01 năm 03 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo, ngày 10/9/2020.
Phạt bị cáo Lại Thế S 01 năm 03 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo, ngày 10/9/2020.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,12 gam ma túy Heroine còn lại sau trích mẫu giám định được tái niêm phong bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt bì thư có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Lại Thế S và Ngà Văn Hngày 10/9/2020 tại tổ 34, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”. 01 ví giả da màu đen. Trả lại cho bị cáo Ngà Văn H 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Ngà Văn Hùng. Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu VIVO màu vàng có số IMEI 866580038377150 (đã qua sử dụng) để đảm bảo công tác thi hành án.
(Vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/11/2020)
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Lại Thế S và bị cáo Ngà Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 113/2020/HS-ST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 113/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về