Bản án 113/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 113/2019/HS-ST NGÀY 29/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 7 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2019/HSST ngày 02 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Toàn Văn U (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 10 tháng 8 năm 1999 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 6, khối 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Toàn Văn S, sinh năm 1952 và con bà Ngô Thị Đ, sinh năm 1959; vợ, con: Chưa có; Nhân thân: 01 tiền sự ngày 23/9/2014 Công an huyện C, tỉnh Lạng sơn xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo (đã được xóa); tiền sự: không; tiền án: Ngày 12/6/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng sơn xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/5/2019 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Tô Xuân H, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn V, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Tô Văn N, sinh năm 1972; nơi cư trú: Thôn V, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người làm chứng: Chị Hoàng Thị D; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 20 phút ngày 27/5/2019 Toàn Văn U, đi bộ ở khu vực thôn V, xã H, thành phố L phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen trắng, mang BKS 12P1-179.xx dựng ở trong sân trước cửa nhà, cổng nhà không đóng, chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa điện Toàn Văn U đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe. Quan sát thấy xung quanh vắng người, Toàn Văn U dắt xe ra khỏi cổng một đoạn rồi nổ máy đem đi tìm nơi tiêu thụ. Toàn Văn U điều khiển chiếc xe mô tô đi đến khu vực trước cổng trường Trung học cơ sở Đông Kinh, đường C, phường Đ, thành phố L thì dừng lại kiểm tra trong cốp xe có 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số 014309 mang tên Tô Văn N; 01 (một) giấy phép lái xe số 010164055682 và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 082207686 mang tên Tô Xuân H. Toàn Văn U tiếp tục điều khiển xe lên cửa hiệu cầm đồ số 12, đường T, phường H, thành phố L để chuẩn bị tiêu thụ tài sản thì bị chị Hoàng Thị D, sinh năm 1995 và anh Tô Xuân H sinh năm 1994 (là con dâu và con trai của ông Tô Văn N, cùng trú tại thôn V, xã H, thành phố L) phát hiện và giữ lại rồi đưa Toàn Văn U lên Công an thành phố Lạng Sơn trình báo nội dung sự việc, cơ quan Điều tra đã thu giữ tang vật.

Tại Biên bản định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 93 ngày 28/05/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự Lạng Sơn xác định chiếc xe môtô Honda Wave BKS 12P1-179.xx Toàn Văn U chiếm đoạt trị giá 15.050.000 đồng (mười lăm triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).

Cơ quan điều tra đã bắt khẩn cấp, khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tạm giam đối với Toàn Văn U để điều tra theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra Toàn Văn U đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Các vật chứng thu giữ được bao gồm: 01 (một) chìa khóa xe mô tô; 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave RSX số khung 3861GY026713, số máy JA38E0061637, biển kiểm soát 12P1-179.xx; 01 (một) giấy phép lái xe số 010164055682 mang tên Tô Xuân H; 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số 014309 mang tên Tô Văn N; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 082207686 mang tên Tô Xuân H.

Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe mô tô và giấy tờ đăng ký xe mô tô cho chủ sở hữu là ông Tô Văn N; trao trả giấy phép lái xe và giấy chứng minh nhân dân cho anh Tô Xuân H.

Tại bản cáo trạng số 114/CT-VKS, ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Toàn Văn U về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Toàn Văn U khai nhận: Do không bản thân nợ nần và không có tiền tiêu sài ngày 27/5/2019 đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen trắng, mang BKS 12P1-179.xx của anh Tô Xuân H dựng trong sân nhà tại thôn V, xã H, thành phố L. Sau khi lấy trộm được chiếc xe, đang trên đường mang xe đi cầm cố lấy tiền tiêu sài, thì bị chủ xe phát hiện và đưa về cơ quan Công an làm việc.

Ti cơ quan điều tra bị hại anh Tô Xuân H trình bày: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 27/5/2019 anh để chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen trắng, mang BKS 12P1 - 179.xx trong sân nhà, xe vẫn cắm chìa khóa, nhà không đóng cổng. Sau khi anh vào nhà khoảng 20 phút sau ra, anh không thấy xe máy đâu. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày vợ anh nhìn thấy một người thanh niên đang đuề khiển xe mô tô của anh, vợ anh đi theo sau thấy người này vào hiệu cầm đồ trên đường B, phường H. Vợ anh đã gọi điện báo anh ra và anh cùng vợ giữ thanh niên đó lại đưa lên Công an giải quyết. Chiếc xe này của bố anh là ông Tô Văn N mua để gia đình cùng sử dụng.

Ti Cơ quan điều tra ông Tô Văn N trình bày: Sáng ngày 27/5/2019 con trai ông là Tô Xuân H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen trắng, mang BKS 12P1-179.xx đi làm, đến trưa cùng ngày ông ăn cơm xong thì đi ngủ, lúc này con trai ông chưa về. Đến khoảng 13 giờ 50 phút tôi thấy vợ chồng con trai ông chạy vào phòng ông nói không thấy xe mô tô đâu. Gia đình ông chia nhau đi tìm, khoảng 10 phút sau con dâu ông là Hoàng Thị D gọi điện thoại cho con trai tôi (Huy) là đã tìm thấy xe. Sau đó đó con trai tôi đi đâu không rõ, một lúc sau gọi điện báo về là đã tìm thấy người lấy trộm xe và đưa lên Công an để xử lý. Chiếc xe Honda Wave RSX, màu đen trắng, mang BKS 12P1-179.xx do ông mua và đứng tên vào tháng 7/2017 để gia đình sử dụng chung, ngày 06/6/2019 Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả cho ông gồm 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX số khung 3861GY026713, số máy JA38E0061637, biển kiểm soát 12P1- 179.xx, 01 (một) chìa khóa xe mô tô; 01 (một) giấy đăng ký số 014309 mang tên Tô Văn N.

Ti phiên tòa chị Hoàng Thị D khai: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 27/5/2019 chồng chị là Tô Xuân H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 12P1-179.xx về nhà, khi đó bố mẹ chồng chị đang ngủ. Do cần đi lấy đồ nên anh Tô Xuân H chồng chị không khóa cổng, xe mô tô để ở sân nhà, đến 13 giờ 50 phút thì không thấy xe đâu. Chị và mọi người tìm xung quanh nhưng không thấy, sau đó chị đi tìm xe bị mất, khi đi đến ngã tư đường Bà Triệu và đường T, phường H, thành phố L phát hiện một người đàn ông lạ mặt điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12P1 - 179.xx của chồng chị dừng ở hiệu cầm đồ, chị gọi điện thoại cho chồng chị và hô mọi người cùng bắt giữ đưa người lấy trộm xe đến Công an để xử lý. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 12P1-179.xx giấy tờ đứng tên bố chồng chị là Tô Văn N, còn xe do chồng chị là Tô Xuân H sử dụng.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Toàn Văn U phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Toàn Văn U mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì các bị cáo không có điều kiện thi hành.

Về xử lý vật chứng: Xác nhận ngày 06/6/2019, Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả cho ông Tô Văn N 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX số khung 3861GY026713, số máy JA38E0061637, biển kiểm soát 12P1 – 179.xx, đã qua sử dụng, 01 (một) chìa khóa xe mô tô; 01 (một) giấy đang ký số 014309 mang tên Tô Văn N.

Trả cho anh Tô Xuân H 01 giấy phép lái xe số 010164055682 và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 082207686 đều mang tên Tô Xuân H.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn. Lời nói sau cùng bị cáo Toàn Văn U đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Toàn Văn U đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố, giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX , biển kiểm soát 12P1 -179.xx trị giá 15.050.000đ (mười lăm triệu không trăm năm mươi nghìn đồng). Lời khai nhận đó, phù hợp với biên bản sự việc lập hồi vào 14 giờ 30 phút ngày 27/5/3019, vật chứng đã thu giữ và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Toàn Văn U phạm tội Trộm cắp tài sản. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với bị cáo Toàn Văn U là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, hành vi đó làm mất trật tự trị an, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân tại địa phương. Bị cáo tuy nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác đem cầm cố lấy tiền tiêu sài cá nhân là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì vậy đối với hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên cần xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; là người có nhân thân xấu, có 01 tiền sự (đã được xóa) và 01 tiền án. Tại cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay thành khẩn khai báo, trong gia đình bị cáo có bố là ông Toàn Văn Sáng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội lần này là tái phạm nên có 01 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

[5] Về xử lý vật chứng: Xác nhận ngày 06/6/2019 Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả cho ông Tô Văn N 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX số khung 3861GY026713, số máy JA38E0061637, biển kiểm soát 12P1-179.xx, đã qua sử dụng, 01 (một) chìa khóa xe mô tô; 01 (một) giấy đang ký số 014309 mang tên Tô Văn N. Trả cho anh Tô Xuân H 01 giấy phép lái xe số 010164055682 và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 082207686 đều mang tên Tô Xuân H.

[6] Từ những phân tích như trên Hội đồng xét xử thấy rằng cần xử phạt bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì qua xác minh tại địa phương bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng để thi hành.

[7] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về chứng cứ tài liệu trong vụ án được thu thập, bảo quản đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều Điều 38, Điều 47, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố Toàn Văn U phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Toàn Văn U 18 (mười tám) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 27/5/2019.

3. Xử lý vật chứng: Xác nhận 06/6/2019 Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả cho ông Tô Văn N 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX số khung 3861GY026713, số máy JA38E0061637, biển kiểm soát 12P1 - 179.xx, đã qua sử dụng, 01 (một) chìa khóa xe mô tô; 01 (một) giấy đang ký số 014309 mang tên Tô Văn N. Trả cho anh Tô Xuân H 01 giấy phép lái xe số 010164055682 và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 082207686 đều mang tên Tô Xuân H.

4. Án phí: Buộc bị cáo Toàn Văn U phải nộp số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại anh Tô Xuân H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Tô Văn N vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:113/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về