Bản án 113/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 113/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 9 năm năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai, theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 333/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2019 về “tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Lệ H, sinh năm 1994.

Hộ khẩu thường trú: Ấp X, xã H, huyện C, tỉnh T.

Nơi cư trú: Tổ 23, thôn T, xã B, huyện C, tỉnh B.

- Bị đơn: Anh Đoàn Văn S, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Ấp X, xã H, huyện C, tỉnh T Chị H, anh S có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 02/7/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị H trình bày: Chị với anh S chung sống vợ chồng năm 2016, có đăng ký kết hôn. Trong thời gian vợ chồng chung sống, anh S ăn chơi, cờ bạc và đổ nợ nhiều lần, dẫn đến vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, vợ chồng ly thân từ cuối tháng 5/2019 đến nay. Do vợ chồng không thể tiếp tục sống chung nên chị khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh S.

Về con chung: Có một con chung tên Đoàn Diễm M, sinh ngày 26/12/2016, hiện do anh S nuôi dưỡng. Ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi cháu M.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 12/9/2019, trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa bị đơn anh S trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị H về hôn nhân và nguyên nhân mâu thuẫn, nhưng anh thấy mâu thuẫn không lớn có khả năng hàn gắn, anh thừa nhận có cờ bạc nhưng anh đã sửa đổi, lo làm ăn, chăm lo gia đình và vợ con. Khi chị H bỏ đi, anh đã nhiều lần tìm kiếm nhưng chị H cố tình không cho anh biết nơi ở nên không tìm được, anh muốn cùng chị H chung sống trở lại để lo cho con, nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu chị H.

Về con chung: Có một con chung tên Đoàn Diễm M, sinh ngày 26/12/2016 anh S yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi cháu My.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật: Đây là tranh chấp ly hôn và nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị H với anh S là hợp pháp. Chị H cho rằng qua những năm chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do anh S ăn chơi, cờ bạc, cuộc sống không hạnh phúc nên chị H yêu cầu xin ly hôn với anh S. Anh S thừa nhận có cờ bạc nhưng anh đã sửa đổi, lo làm ăn, chăm lo gia đình và vợ con, anh muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau chăm sóc, nuôi dạy con nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Xét giữa chị H với anh S có phát sinh mâu thuẫn, nhưng chỉ là tạm thời, không trầm trọng, có khả năng hàn gắn. Mặt khác tại phiên tòa, chị H xác định cháu My muốn sống với cha mẹ nên việc chị H, anh S ly hôn sẽ ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của cháu My. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị H chưa thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

Do không chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H nên Hội đồng xét xử không xem xét các vấn đề về con chung, tài sản chung và nợ chung.

[3] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm, theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 51 và 56 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Lệ H xin ly hôn với anh Đoàn Văn S.

2. Về án phí: Chị Trần Thị Lệ H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 16864 ngày 03/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Vậy chị H đã thi hành xong án phí.

3. Chị H, anh S có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:113/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về