Bản án 113/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 113/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã D xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 742/2018/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh N; sinh năm 1989; thường trú: Xã Â, huyện H, tỉnh BĐ; tạm trú: Số 19a/9B, khu phố N2, phường D, thị xã D, tỉnh B; Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1985; thường trú: Xã Â, huyện H, tỉnh BĐ; tạm trú: Số 19A/9B, khu phố N2, phường D, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 06/7/2019, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Trước khi kết hôn chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Nguyễn Văn D quen biết nhau khoảng 01 năm, đến năm 2011 chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện T, tỉnh BD theo Giấy chứng nhận kết hôn số 48, quyển số 01/2010 ngày 07/10/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại địa chỉ 19A/9b, khu phố N2, phường D, thị xã D, tỉnh B. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, tranh cãi nguyên nhân là do anh Nguyễn Văn D không quan tâm, chăm sóc vợ con, thường xuyên uống rượu, bia không kiểm soát được hành vi làm ảnh hưởng đến tâm lý của các con, anh Nguyễn Văn D không trung thực với vợ con, thường xuyên chơi cờ bạc gây nợ nần, vợ chồng đã đã trao đổi nhưng anh Nguyễn Văn D không sửa chữa, từ tháng 7/2019 anh Duy đã chuyển sang phòng khác sinh sống. Nay, chị Nguyễn Thị Thanh N xác định tình cảm không còn mục đích hôn nhân không đạt được nêu yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng M, sinh ngày 07/12/2012 và cháu Nguyễn Hoàng V, sinh ngày 11/11/2014. Sau khi ly hôn chị Nguyễn Thị Thanh N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu anh Nguyễn Văn D thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Khi vợ chồng sống ly thân con chung ở với chị Nguyễn Thị Thanh N, do chị Nga trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị Thanh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 06/8/2019 và lời khai trong quá trình trình tố tụng bị đơn anh Nguyễn Văn D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn D thống nhất với phần trình bày của chị Nguyễn Thị Thanh N về thời gian tìm hiểu, chung sống, đăng ký kết hôn nhưng không thống nhất về mâu thuẫn vợ chồng. Theo anh Nguyễn Văn D, vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ, anh Nguyễn Văn D thừa nhận có chơi lô, đề gây nợ nhưng số nợ rất ít và đã trả hết, tháng 7/2019 do chị Nguyễn Thị Thanh N yêu cầu ly hôn nên anh Nguyễn Văn D đã chuyển sang phòng khác sinh sống. Nay, chị Nguyễn Thị Thanh N yêu cầu ly hôn, anh Nguyễn Văn D không đồng ý vì còn thương vợ, con.

Về con chung: Thống nhất với lời khai của chị Nguyễn Thị Thanh N về số con chung, họ tên ngày tháng năm sinh của con. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh Nguyễn Văn D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng My và đồng ý giao con chung tên Nguyễn Hoàng Vỹ cho chị Nga trực tiếp nuôi dưỡng, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa ngày 30/9/2019 nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng bị đơn là đúng quy định. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

Về nội dung: Quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Nguyễn Văn D phát sinh nhiều mâu thuẫn, không thể hàn gắn nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh N; giao 02 con chung chị Nguyễn Thị Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Thanh N về việc không yêu cầu anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nghĩa vụ chung, các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Đề nghị Tòa án xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về việc vắng mặt của đương sự: Bị đơn anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa ngày 30/9/2019 nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn D.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Nguyễn Văn D là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện T, tỉnh BD theo giấy chứng nhận kết hôn số 48, quyển số 01/2010 ngày 07/10/2011 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chị Nguyễn Thị Thanh N cho rằng trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, anh Nguyễn Văn D không quan tâm, chăm sóc vợ con, thường xuyên uống rượu, bia không kiểm soát được hành vi làm ảnh hưởng đến tâm lý của các con, anh Nguyễn Văn D không trung thực, thường xuyên chơi cờ bạc gây nợ nần; Anh Nguyễn Văn D xác định vợ chồng có những mâu thuẫn nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ, thừa nhận chơi lô đề, có nợ nhưng đã trả hết. Hội đồng xét xử xét thấy: Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải thương yêu, quý trọng, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Xét quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn D và chị Nguyễn Thị Thanh N đã phát sinh từ lâu, do vợ chồng không có sự chia sẻ, không quan tâm đến nhau, không tin tưởng, mặc dù anh Nguyễn Văn D không đồng ý ly hôn nhưng từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay bản thân Duy không đưa ra được phương án để vợ chồng hàn gắn tình cảm. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Nguyễn Văn D đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy chị Nguyễn Thị Thanh N yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn D là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên có cơ sở chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Nguyễn Văn D có 02 con chung là cháu Nguyễn Hoàng M, sinh ngày 07/12/2012 và cháu Nguyễn Hoàng V, sinh ngày 11/11/2014. Chị Nguyễn Thị Thanh N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi 02 con chung, anh Nguyễn Văn D có nguyện vọng được được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng My, giao con chung tên Nguyễn Hoàng Vỹ cho chị Nguyễn Thị Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét về mọi mặt, quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy cháu Nguyễn Hoàng My là con gái và cháu Nguyễn Hoàng Vỹ còn nhỏ nên cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ, đồng thời từ khi vợ chồng sốn ly thân con chung ở với mẹ là chị Nguyễn Thị Thanh N. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình có cơ sở chấp nhận nguyện vọng của chị Nguyễn Thị Thanh N về việc trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Thanh N về việc không yêu cầu anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Văn D có quyền đi lại thăm con.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh B.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thanh N phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Văn D không phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Khoản 4 Điều 147, Điều 244, Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh N được ly hôn với anh Nguyễn Văn D (Giấy chứng nhận kết hôn số 48, quyển số 01/2010 do Ủy ban nhân dân xã TT, huyện T, tỉnh BD cấp ngày 07/10/2011)

2. Về con chung: Tiếp tục giao 02 con chung tên Nguyễn Hoàng M, sinh ngày 07/12/2012 và cháu Nguyễn Hoàng V, sinh ngày 11/11/2014 cho chị Nguyễn Thị Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Văn D và chị Nguyễn Thị Thanh N đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Nguyễn Văn D lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Nguyễn Thị Thanh N nuôi con thì chị Nguyễn Thị Thanh N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Thanh N về việc không yêu cầu anh Nguyễn Văn D phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn, được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0028987 ngày 30/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh B.

6. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:113/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về