TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 113/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 06 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 547/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp: “Xin ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Trần Thị Thảo T, sinh năm 1998 (có mặt).
Địa chỉ: 34B, ấp 1, xã T, TP.M, Tiền Giang.
* Bị đơn : Nguyễn Thanh H, sinh năm 1996 (có mặt).
Địa chỉ: 34B, ấp 1, xã T, TP.M, Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn chị Trần Thị Thảo T trình bày: chị và anh H cưới nhau năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố M vào năm 2017.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, anh H xúc phạm, đánh chị, cờ bạc không quan tâm vợ con, thường xuyên xảy ra cự cải, hay ghen. Anh chị đã ly thân từ ngày tháng 7/2019 đến nay. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh H.
Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn An K, sinh năm 2017, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu K, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu K đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Nguyễn Thanh H thống nhất như phần trình bày của chị T về hôn nhân và con chung. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì có phát sinh mâu thuẫn nhưng không lớn, anh có lo cho vợ con nên mới đi làm chứ không phải không lo như chị T đã trình bày, vợ chồng có cự cải nhưng không thường xuyên, anh có đánh chị T một bạt tay vào tháng 7/2019, do chị T nhắn tin đùa giỡn với người khác nên anh ghen. Anh và chị T đã ly thân từ tháng 7 năm 2019 đến nay. Nay anh không đồng ý ly hôn do anh còn tình cảm với chị T và con còn quá nhỏ.
Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn An K, sinh năm 2017. Trường hợp Tòa án cho ly hôn, anh không đồng ý chị T nuôi con, do việc làm chị T không ổn định. Anh yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp Tòa án giao con cho chị T nuôi anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho phát biểu: Từ khi thụ lý vụ kiện và tại phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán, Hội đồng xét xử đều đã thực hiện đúng qui định pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng qui định Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: hai bên mới ly thân nhau, chị T thừa nhận còn tình cảm với anh H, do đó mâu thuẫn chưa trầm trọng, còn khả năng hàn gắn. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T. Về con chung, tài sản chung, nợ chung không đặt ra xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung: chị T yêu cầu được ly hôn với anh H, yêu cầu được nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy, chị T và anh H xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T Theo chị T trình bày, vào năm 2019 thì chị và anh H phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh H xúc phạm, đánh chị, cờ bạc không quan tâm vợ con, thường xuyên xảy ra cự cải, hay ghen. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh H.
Phía anh H thừa nhận vợ chồng có xảy ra cự cải, anh có chơi cờ bạc và có đánh chị T nhưng anh cho rằng mâu thuẫn chưa trầm trọng. Nay anh không đồng ý ly hôn.
Xét thấy, vào năm 2019 chị Tvà anh H xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H ham chơi cờ bạc, anh H có đánh chị Trang. Gia đình hai bên có gặp nhau để khuyên bảo nhưng không có kết quả. Tháng 7/2019 chị T bỏ nhà đi, sau đó anh H có kêu chị T hàn gắn lại nhưng chị T không đồng ý. Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh H đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn.
Nay chị T yêu cầu được ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về con chung: có 01 con chung là cháu K, sinh ngày 30/10/2017. Xét thấy, chị T hiện đang làm nhân viên tiếp thị cho Công ty tư nhân có thu nhập ổn định. Cháu K chưa được 03 tuổi, theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình thì con dưới 36 tháng tuổi giao cho mẹ nuôi . Do đó giao cháu K cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng.
Anh H đồng ý mức cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Về tài sản chung, nợ chung: hai bên khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2] Về án phí: chị T, anh H phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1/ Về hôn nhân: cho chị Trần Thị Thảo T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh H.
2/ Về con chung: giao cháu Nguyễn An K, sinh ngày 30/10/2017 cho chị T nuôi dưỡng.
Anh H có quyền tới lui thăm con, chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản.
Anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng, kể từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Khang đủ 18 tuổi.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3/ Về tài sản chung: không có, không yêu cầu.
4/ Về nợ chung: không có, không yêu cầu.
5/ Về án phí: chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000180 ngày 24/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho nên xem như đã nộp xong.
Anh H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 113/2019/HNGĐ-ST ngày 06/09/2019 về tranh chấp xin ly hôn
Số hiệu: | 113/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về