Bản án 113/2019/DS-PT ngày 16/04/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 113/2019/DS-PT NGÀY 16/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong các ngày 05 tháng 12 năm 2018 và ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 217/2018/TLPT-DS ngày 16 tháng 10 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 35/2018/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 287/2018/QĐ-PT ngày 26 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1962 – Chủ đại lý thức ăn thủy sản Phương Tú (có mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Cẩm N, sinh năm 1990 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Khóm 1, thị t, huyện P, tỉnh C.

- Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1976 (có mặt).

2. Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1978 (vắng mặt). Cùng địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện P, tỉnh C.

- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị T2 – Bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn P trình bày: Vợ chồng ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2 là khách hàng được đại lý thuốc thức ăn Phương Tú đầu tư thuốc và thức ăn thủy sản. Trong suốt thời gian từ ngày 28 tháng 4 năm 2014 đến ngày 22 tháng 02 năm 2017, ông T1 và bà T2 đã nợ tiền mua thuốc thức ăn của đại lý thuốc thức ăn Phương Tú với tổng số tiền nợ là 928.376.500 đồng. Ông yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông T1 và bà T2 trả cho đại lý thuốc thức ăn Phương Tú số tiền nợ là 928.376.500 đồng.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T1 trình bày: Ông thừa nhận có nợ ông Nguyễn Văn P chủ đại lý thuốc thức ăn thủy sản Phương Tú tổng cộng 928.376.500 đồng. Ông đồng ý giao cho ông P một phần đất ngang 35m dài từ tiền đến hậu để trừ số tiền nợ nêu trên. Nhưng hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) ông đang thế chấp ngân hàng để vay tiền nên ông P phải cho ông vay số tiền 325.000.000 đồng để trả Ngân hàng, ông lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tách sổ cho ông P. Tại phiên tòa ông T1 không đồng ý trả tiền theo yêu cầu của ông P, ông T1 cho rằng giữa ông P và ông đã thỏa thuận ông giao đất cho ông P để trừ tiền nên ông đồng ý giao đất cho ông P theo thỏa thuận.

Đi với bà Nguyễn Thị T2 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng để tham gia hòa giải và xét xử nhưng bà T2 không tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa và không cung cấp lời khai cho Tòa án.

Tư nôi dung tranh châp trên , tại bản án dân sự sơ thẩm số: 35/2018/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân đã quyết định:

Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 92; Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điêu 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng các Điều 430 và Điều 440 của Bộ luật dân sự.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của Nguyễn Văn P. Buộc ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2 có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Văn P số tiền 928.376.500 đồng (chín trăm hai mươi tám triệu, ba trăm bảy mươi sáu ngàn, năm trăm đồng).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trường hợp thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 19/9/2018, ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2 kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm buộc ông Nguyễn Văn P thực hiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã ký kết giữa hai bên.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Văn T1 giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định.

Về nội dung: Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2 thấy rằng, việc mua bán thuốc và thức ăn nuôi trồng thủy sản giữa ông Nguyễn Văn P – Chủ đại lý thức ăn thủy sản Phương Tú với ông T1, bà T2 là thực tế có xảy ra. Các bên thừa nhận ông T1, bà T2 còn nợ ông P số tiền 928.376.500 đồng.

[2] Sau khi ông P khởi kiện yêu cầu trả số nợ nêu trên, tại Tòa án huyện Phú Tân, giữa ông P và ông T1, bà T2 có thỏa thuận, theo đó ngoài khoản nợ nêu trên, ông P cho ông T1, bà T2 vay thêm số tiền 532.000.000 đồng để ông T1, bà T2 trả nợ vay tại Ngân hàng Liên Việt chi nhánh huyện Cái Nước để lấy giấy CNQSDĐ đang thế chấp tại Ngân hàng. Ông T1, bà T2 thế chấp 04 giấy CNQSDĐ và sau khi chuộc giấy, ông Tử, bà T2 có nghĩa vụ tách phần đất ngang 35m x dài 18m trong giấy CNQSDĐ số AK101918 do Ủy ban nhân dân huyện Phú Tân cấp ngày 11/6/2007 do ông Nguyễn Văn T1 đứng tên cho ông P để trừ số nợ 928.376.500 đồng.

Xét thấy, việc thỏa thuận giữa ông P và ông T1, bà T2 được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, được lập thành văn bản, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Nguyễn Việt Khái, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tuy nhiên, thực tế các bên vẫn chưa thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 630m2 , thuộc thửa số 832, tờ bản đồ số 03 (được tách từ thửa số 515, tờ bản đồ số 07 của giấy CNQSDĐ số AK101918 do Ủy ban nhân dân huyện Phú Tân cấp ngày 11/6/2007 do ông Nguyễn Văn T1 đứng tên) theo quy định của pháp luật. Do đó, Tòa án không có cơ sở để buộc các bên thực hiện thỏa thuận (hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 18/6/2018). Cấp sơ thẩm buộc bị đơn trả số nợ mua bán đã thừa nhận là có căn cứ. Sau khi nguyên đơn khởi kiện yêu cầu trả nợ, việc đôi bên thỏa thuận thế chấp giấy CNQSDĐ và thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên không thành, nên nguyên đơn tiếp tục yêu cầu, không rút đơn khởi kiện. Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩn, phía bị đơn không đặt ra yêu cầu về việc thế chấp giấy CNQSDĐ, nên nếu sau này các bên không thỏa thuận được về việc thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được ký ngày 18/6/2018, sẽ được giải quyết bằng vụ án khác (nếu có yêu cầu).

[3] Tại cấp phúc thẩm, bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

[4] Do không châp nhân yêu câu khang cao nên bị đơn phai chiu an phi phuc thâm theo luât đinh.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 35/2018/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn P. Buộc ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2 có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Văn P số tiền 928.376.500 đồng (Chín trăm hai mươi tám triệu, ba trăm bảy mươi sáu ngàn, năm trăm đồng).

2. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2 phải liên đới chịu án phí số tiền là 39.851.295 (Ba mươi chín triệu, tám trăm năm mươi mốt ngàn, hai trăm chín mươi lăm đồng), chưa nộp.

Ông Nguyễn Văn P không phải chịu án phí. Ngày 14/5/2018, ông P đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 19.925.647 đồng (Mười chín triệu, chín trăm hai mươi lăm ngàn, sáu trăm bốn mươi bảy đồng) theo biên lai thu số 0007069 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, được nhận lại.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2 phải chịu 300.000 đồng. Ngày 20/9/2018, ông T1 đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007285 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, được đối trừ chuyển thu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2019/DS-PT ngày 16/04/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:113/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về