Bản án 112/2021/HS-ST ngày 28/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 112/2021/HS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 109/2021/TLST-HS ngày 10/5/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2021/QĐXXST-HS ngày 13/5/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Bá P; Sinh năm: 1997; Giới tính: Nam; HKTT: Xóm Thuận Minh, xã Thuận Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 09/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam ; Tôn giáo: Không; Con ông: Không có; Con bà: Phan Thị Lý; Vợ, con: Không; Bị cáo là con duy nhất;

Tiền án, tiền sự: Không;

Danh chỉ bản số: 154, lập ngày 04/02/2021, tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Bị cáo bị tạm gi , tạm giam từ ngày 24/01/2021, tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 00 phút ngày 24/01/2021 tại khu vực đường Phương Canh, phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, tổ công tác Công an phường Xuân Phương phát hiện Phan Bá P chạy vào phòng số 8 tầng 2 dãy nhà ở của Trung tâm đào tạo nhân lực Thuận Thảo có biểu hiện nghi vấn. Yêu cầu kiểm tra, phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của P đang mặc có 01 gói nilông, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma tuý, 01 coóng thủy tinh đã bị gãy trong áo phía trước bụng của P, 01 điện thoại di động Iphone 6, màu vàng không gắn sim. P khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy, P mang về tìm nơi để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật và dẫn giải P cùng tang vật về trụ sở Công an phường Xuân Phương để điều tra để làm rõ.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 24/01/2021, Phan Bá P cùng một số bạn học tại Trung tâm đào tạo nhân lực Thuận Thảo (Địa chỉ: Tổ 1, phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội) đi liên hoan ăn uống tại quán ăn Iban (Địa chỉ: Số 32, đường Phúc Diễn, phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội). Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, P một mình đi bộ về khu nhà ở của Trung tâm Thuận Thảo thì gặp một người bạn xã hội tên Tâm (khoảng 30 tuổi, không rõ địa chỉ cụ thể) rủ P đi sử dụng ma túy đá. Tâm điều khiển xe máy kiểu dáng Honda Wave (không rõ BKS) đèo P đi đến một cánh đồng ở khu vực phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội rồi lấy trong cốp xe ra 01 coóng thủy tinh, bên trong có một ít ma túy đá và cả hai cùng nhau sử dụng hết. Sau đó, P nhờ Tâm mua hộ 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) tiền ma túy đá để sử dụng và trả 50.000 đồng (Bằng chữ: Năm mươi nghìn đồng) tiền xăng xe đi lại, Tâm đồng ý. Khoảng 30 phút sau, tại ngã tư Phúc Diễn giao với đường Trần H u Dực, Tâm đưa cho P 01 gói nilông màu trắng, bên trong có ma túy đá. P cất gói ma túy đá vào túi quần phía trước bên phải rồi đi về quán ăn rủ Đỗ Văn Nghĩa (Sinh năm:

1991; HKTT: Thôn Phú Xá, xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương) và Nguyễn H u Đạt (Sinh năm: 1997; HKTT: Xóm 7, xã Thanh Bình Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) là bạn học cùng Trung tâm đi hát Karaoke. P, Đạt và Nghĩa đi taxi đến khu vực đường Đê La Thành thì P xuống xe mua được của một người phụ n lạ mặt 01 coóng thủy tinh, mục đích để sử dụng ma túy, với giá 70.000 đồng (Bằng chữ: Bẩy mươi nghìn đồng). P giấu coóng thủy tinh vào trong áo phía trước bụng rồi quay trở lại xe. Do Đạt và Nghĩa không có tiền đi hát Karaoke nên cả ba cùng đi về Trung tâm đào tạo nhân lực Thuận Thảo. Đến Trung tâm, Đạt và Nghĩa đi về phòng riêng, P nhìn thấy lực lượng Công an nên sợ và chạy lên phòng số 8, tầng 2, dãy nhà ở của Trung tâm thì bị tổ công tác Công an phường Xuân Phương kiểm tra bắt gi .

Tại Kết luận giám định số: 1127/KLGĐ-PC09 ngày 30/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, kết luận:“Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,374 gam./.” Tại cơ quan điều tra, Phan Bá P khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và khai: Nguyễn H u Đạt và Đỗ Văn Nghĩa không biết P cất giấu ma túy trong người, do đó Cơ quan điều tra không đề cập xử lý Đạt và Nghĩa.

Đối với đối tượng Tâm là người mua hộ gói ma túy đá và sử dụng cùng P. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên không đề cập xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của P trước đó. Ngày 03/3/2021, Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 131/QĐ-XPHC đối với P, mức tiền phạt là: 750.000 đồng (Bằng chữ: Bẩy trăm năm mươi nghìn đồng).

Bản Cáo trạng số: 106/CT-VKS ngày 05/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Phan Bá P về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều luật quy định:

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c)... Methamphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Tại phiên tòa:

Bị cáo P thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Phan Bá P và kết luận: Gi quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo P về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo P từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy vật cấm tàng trữ và 01 coóng thủy tinh được niêm phong trong 02 (hai) phong bì có ch ký của Phan Bá P và Công an phường Xuân Phương, giám định viên; Trả lại bị cáo P: 01 (Một) điện thoại di động Iphone 6, màu vàng, vì không phải là vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Hồi 15 giờ 00 phút ngày 24/01/2021, tại khu nhà ở Trung tâm đào tạo nhân lực Thuận Thảo thuộc phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Phan Bá P có hành vi tàng trữ trái phép 0,374 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Xuân Phương phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phan Bá P đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố đối với bị cáo về tội danh và khung hình phạt như đã viện dẫn, là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp với pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo P là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nh ng quy định của Nhà Nước về chế độ quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý cất giấu ma túy để sử dụng. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[3] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo P là nghiêm trọng, được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 0,374gam Methamphetamine, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo P từ 15 tháng đến 18 tháng tù, là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo gây ra.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Không.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Tịch thu tiêu hủy vật cấm tàng trữ và 01 coóng thủy tinh được niêm phong trong 02 (hai) phong bì có ch ký của Phan Bá P và Công an phường Xuân Phương, giám định viên; Trả lại bị cáo P: 01 (Một) điện thoại di động Iphone 6, màu vàng, vì không phải là vật chứng, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phan Bá P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Phan Bá P 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2021.

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 02 (Hai) phong bì niêm phong có ch ký của Phan Bá P và Công an phường Xuân Phương, giám định viên; Trả lại bị cáo P: 01 (Một) điện thoại di động Iphone 6, màu vàng (Có đặc điểm theo biên bản giao, nhận vật chứng số: 166, đề ngày 07/5/2021, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Về án phí: Bị cáo P phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2021/HS-ST ngày 28/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:112/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về