Bản án 112/2021/HS-PT ngày 23/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 112/2021/HS-PT NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1106/TLPT-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q do có kháng cáo của bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 432/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

1. Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1976; Giới tính: Nam; Nơi thường trú: Thôn P, xã Đ, huyện S, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Tham gia Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm 1925 (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị N, sinh năm 1933 (đã chết); Vợ: Ngô Thị H, sinh năm 1979; Con: Có 04 con; lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không;

*Nhân thân: Ngày 29/9/2006, bị Toà án nhân dân huyện S, Hà Nội xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/10/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an Hà Nội; có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Q: NBC; có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có kháng cáo: Chị Ngô Thị H (vợ Nguyễn Văn Q); cư trú tại: Thôn P, xã Đ, huyện S, Hà Nội; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Quang T không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong các ngày 09/10/2018, 14/8/2019 và 13/10/2019 Công an huyện S tiếp nhận đơn của ông Đỗ Văn N, chị Trần Thị Thu P, anh Đỗ Thế Đ trình báo về việc các gia đình trên bị kẻ gian đột nhập trộm cắp tài sản.

Sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S đã phối hợp với Công an xã Đ xác minh và truy tìm điện thoại theo định vị của máy, xác định vị trí là nhà Nguyễn Văn Q. Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra, phát hiện thu giữ 02 chiếc điện thoại. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Q khai nhận cùng Nguyễn Quang T trộm cắp tài sản của gia đình anh Đỗ Thế Đ vào sáng ngày 02/10/2019. Theo lời khai của Q, Cơ quan điều tra đã triệu tập Nguyễn Quang T để làm việc. Tại Cơ quan điều tra, T thừa nhận đã cùng Q trộm cắp 01 chiếc điện thoại Samsung J2 màu hồng, một điện thoại Xiaomi Redmi 7 cùng bộ sạc và 700.000 đồng. Sau khi lấy được tài sản, Q mang 02 chiếc điện thoại về nhà cất giấu và sử dụng ăn tiêu hết số tiền 700.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 37/KL-HĐ ngày 24/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S, Hà Nội kết luận:

- 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi 7 trị giá: 1.400.000 đồng.

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J2 trị giá: 1.460.000 đồng.

- Tổng trị giá các tài sản do các Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang T chiếm đoạt của anh Đỗ Thế Đ là 3.560.000 đồng.

Ngày 19/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S đã quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc điện thoại Samsung J2 và chiếc điện thoại Xiaomi Redmi 7 cùng bộ sạc cho người bị hại là anh Đỗ Thế Đ. Hiện anh Đ đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang T theo quy định của pháp luật và yêu cầu các bị can phải bồi thường số tiền 700.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã đấu tranh, làm rõ ngoài hành vi trên, Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang T còn thực hiện 21 vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể như sau hành vi của Nguyễn Văn Q như sau:

1. Vụ thứ nhất: Khong 0h00 một ngày trong tháng 07/2013, Q và T trộm cắp của gia đình chị Nguyễn Thị Y (sinh năm 1979; ở Thôn Y, xã Đ, huyện S, Hà Nội) 7.000.000 chia nhau mỗi người được 3.500.000 đồng sử dụng cá nhân.

2. Vụ thứ hai: Sáng một ngày trong năm 2015, Q và T trộm của bà Đào Thị B (sinh năm 1953; ở thôn Y, xã Đ, huyện S, Hà Nội) 01 dây chuyền bằng vàng 9999 có trọng lượng 05 chỉ cùng 01 dây chuyền bằng vàng 9999 có trọng lượng 03 chỉ, 02 chiếc nhẫn tròn trơn bằng vàng 9999 (trọng lượng mỗi chiếc 01 chỉ), 02 chiếc nhẫn tròn trơn bằng vàng 9999 (trọng lượng mỗi chiếc 02 chỉ).

Còn T lấy được 4.000.000 đồng của bà B để dưới gối. Q, T chia nhau mỗi người được 2.000.000 đồng. Còn số vàng, ngày hôm sau T và Q cùng mang đi bán ở nhiều cửa hàng khác nhau nhưng không nhớ địa chỉ, được 30.000.000 đồng, chia nhau mỗi người được 15.000.000 đồng, sử dụng cá nhân hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 47/KL-HĐ ngày 03/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S kết luận:

- 01 dây chuyền bằng vàng 9999, trọng lượng 05 chỉ có giá trị là 17.025.000 đồng.

- 01 dây chuyền bằng vàng 9999, trọng lượng 03 chỉ có giá trị là 10.215.000 đồng.

- 02 chiếc nhẫn tròn trơn bằng vàng 9999, trọng lượng mỗi chiếc 01 chỉ có giá trị là 6.810.000 đồng.

- 02 chiếc nhẫn tròn trơn bằng vàng 9999, trọng lượng mỗi chiếc 02 chỉ có giá trị là 13.620.000 đồng.

- Tng trị giá tài sản do Q và T đã chiếm đoạt của gia đình bà Đào Thị B là 51.670.000 đồng.

3. Vụ thứ ba: Khong 02h00 ngày 02/11/2016, Nguyễn Văn Q trộm cắp của nhà chị Lò Thị Minh N (sinh năm 1985; trú tại Thôn P, xã Đ, huyện S, Hà Nội) 2.000.000 đồng. Quá trình điều tra vụ án, chị Lò Thị Minh N đề nghị xử lý nghiêm hành vi phạm tội của Q và yêu cầu bị can bồi thường số tiến 2.000.000 đồng.

4. Vụ thứ tư: Khong 01h00 một ngày trong tháng 02/2017, Q và T đi trộm cắp của gia đình chị Đào Thị H (sinh năm 1976; ở Thôn P, xã Đ, huyện S, Hà Nội) được 01 chiếc điện thoại Samsung J2 màu hồng và 2.000.000 đồng chia nhau mỗi người được 1.000.000 đồng; còn chiếc điện thoại Samsung J2 Q đem bán được 800.000 đồng và chia cho T 400.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐ ngày 07/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S kết luận: Chiếc điện thoại Samsung J2 có giá là 2.277.609 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, chị Đào Thị H đề nghị xử lý nghiêm hành vi phạm tội của các bị can T, Q và yêu cầu bồi thường số tiền 4.777.609 đồng.

5. Vụ thứ năm: Sáng một ngày trong tháng 07/2017, Q và T trộm của gia đình ông Nguyễn Văn T (sinh năm 1966) ở Thôn P, xã Đ, huyện S, Hà Nội 10.000.000 đồng và 01 điện thoại Xiaomi Redmi 4x. Số tiền trộm cắp được, Q và T chia nhau mỗi người được 5.000.000 đồng. chiếc điện thoại Xiaomi bán 300.000 đồng, rồi chia cho T 150.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 17/KL-HĐ ngày 07/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S, kết luận: Chiếc điện thoại Xiaomi Redmi 4x trị giá 3.527.160 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, ông Nguyễn Văn T đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 13.527.160 đồng.

6. Vụ thứ sáu: Khoảng 01h00 một ngày trong tháng 08/2017, Q và T trộm của nhà chị Hoàng Thị H (sinh năm 1977; ở tại Thôn P, xã Đ, huyện S, Hà Nội) 27.000.000 đồng chia nhau mỗi người được 13.500.000 đồng, cả hai đã sử dụng ăn tiêu hết.

Quá trình điều tra vụ án, chị Hoàng Thị H đề nghị xử lý nghiêm hành vi phạm tội của T, Q và yêu cầu bồi thường số tiền 27.000.000 đồng.

7. Vụ thứ bảy: Khoảng 01h00 ngày 26/09/2017, Q trộm cắp tài sản của chị Vũ Thị Thanh V, sinh năm 1980; trú tại khu tập thể Z, xã Đ, S, Hà Nội số tiền 25.000.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Nokia 630 và 01 chiếc nồi áp xuất Nhãn hiệu Sharp. Chiếc điện thoại Nokia 630 bán được 500.000 đồng; còn chiếc nồi áp xuất, Q mang về nhà sử dụng, đã bị hư hỏng. Số tiền trộm cắp và số tiền bán tài sản trộm cắp, Q đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐ ngày 30/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S kết luận:

- 01 chiếc điện thoại di động Nokia 630 có giá trị là 1.600.000 đồng.

- 01 nồi áp suất điện Sharp KS180s có giá trị là 780.000 đồng.

- Tổng trị giá tài sản bị can Q chiếm đoạt của bị hại Vũ Thị Thanh V là: 27.380.000 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, chị Vũ Thị Thanh V đề nghị xử lý bị can Nguyễn Văn Q theo pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 27.380.000 đồng.

8. Vụ thứ tám: Khoảng 23h30 phút ngày 18/10/2017, Q và T trộm cắp của gia đình bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1944) ở thôn Y, xã Đ, huyện S, Hà Nội 01 chiếc Ipad mini 3; số tiền 71.500.000 đồng; 01 lắc tay bằng vàng 9999 đính đá Rubi, 01 nhẫn bằng vàng tây trọng lượng 1,5 chỉ có đính đá, 02 chiếc nhẫn bằng vàng tây, mỗi chiếc có trọng lượng 01 chỉ, có đính đá. Q và T chia nhau bán lấy tiền ăn tiêu hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 46/KL-HĐ ngày 03/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S kết luận:

- 01 chiếc vòng tay bằng vàng đính đá Ruby có giá trị là 21.050.000 đồng.

- 01 chiếc nhẫn bằng vàng tây trọng lượng 1,5 chỉ, có đính đá, có giá trị là 2.632.500 đồng.

- 02 chiếc nhẫn bằng vàng tây, mỗi chiếc có trọng lượng 1,0 chỉ, có đính đá, có giá trị là 3.510.000 đồng.

- 01 chiếc Ipad mini 3 có giá trị là 12.000.000 đồng.

- Tổng trị giá tài sản do Q và T chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị T là 110.692.500 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, bà Nguyễn Thị T đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 110.692.500 đồng.

9. Vụ thứ chín: Sáng ngày 27/10/2017, Q trộm cắp của gia đình anh Lê Văn L (sinh năm 1991) ở thôn C, xã Đ, huyện S, Hà Nội 01 điện thoại Iphone 6 màu xám, 01 điện thoại Iphone 6S màu hồng, 01 điện thoại Nokia 105 màu đen, 01 chiếc đồng hồ đeo tay và 24.000.000 đồng. Q đem bán 03 chiếc điện thoại còn chiếc đồng hồ Q giữ lại sử dụng và đã bị Cơ quan điều tra đã thu giữ trong quá trình khám xét nơi ở. Số tiền trộm cắp được, Q đã sử dụng ăn tiêu hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 44/KL-HĐ ngày 03/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S, kết luận:

- 01 điện thoại di dộng iPhone 6 màu xám có giá trị là 5.367.000 đồng.

- 01 điện thoại di dộng iPhone 6s màu hồng có giá trị là 5.400.000 đồng.

- 01 điện thoại di dộng Nokia 105 màu đen có giá trị là 240.000 đồng.

- 01 đồng hồ đeo tay, mặt sau có ghi chữ Diesel có giá trị là 275.000 đồng.

- Tổng trị giá tài sản do Nguyễn Văn Q trộm cắp của anh Lê Văn L là 35.282.000 đồng.

Trong quá trình khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn Q, Cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc đồng hồ đeo tay mặt sau có chữ Diesel. Kết quả điều tra xác định chiếc đồng hồ trên là tài sản của anh Lương nên ngày 13/3/2020, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc đồng hồ trên cho anh L.

Quá trình điều tra vụ án, anh Lê Văn L đề nghị xử lý bị can Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 35.282.000 đồng.

10. Vụ thứ mười : Sáng sớm một ngày đầu tháng 01/2018, Q và T trộm cắp của nhà chị Nguyễn Thị H (sinh năm 1980) ở thôn P, xã Đ, huyện S, Hà Nội số tiền 1.200.000 đồng. Q và T đã sử dụng ăn tiêu chung hết.

Quá trình điều tra vụ án, chị Nguyễn Thị H đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 1.200.000 đồng.

11. Vụ thứ mười một: Khong 01h00 ngày 31/01/2018, Q và T trộm cắp của gia đình bà Nguyễn Thị N (sinh năm 1952) ở thôn C, xã Đ, huyện S, Hà Nội 4.000.000 đồng và một số thẻ cào điện thoại có tổng giá trị khoảng 17.000.000 đồng. Số tiền lấy được, Q và T đã chia đôi; còn số thẻ cào Viettel trộm cắp được Q đem bán lẻ cho nhiều người không quen biết và chia cho T cùng sử dụng cá nhân hết.

Tại Cơ quan điều tra, bà N không kê khai được chính xác số lượng thẻ cào điện thoại, Cơ quan điều tra không thu hồi được vật chứng; đồng thời các bị can không nhớ cụ thể số thẻ cào trộm cắp được nên không đủ căn cứ để định giá tài sản số thẻ cào trên.

Quá trình điều tra vụ án, bà Nguyễn Thị N đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 21.000.000 đồng.

12. Vụ thứ mười hai: Vào đêm một ngày trong tháng 07/2018, Q và T trộm cắp của gia đình chị Ngô Thị L (sinh năm 1982) ở thôn T, xã Đ, huyện S, Hà Nội) 24.000.000 đồng, chia nhau mỗi người được 12.000.000 đồng. Số tiền trên, Q và T đã ăn tiêu hết.

Quá trình điều tra vụ án, chị Ngô Thị L đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 24.000.000 đồng.

13. Vụ thứ mười ba: Khong 23h30 phút ngày 08/10/2018, T và Q trộm cắp của nhà ông Đỗ Văn N ở khu tập thể Z lấy được 01 ví da nữ để trên giường đưa cho Q. Tiếp theo, T ra gầm cầu thang lấy được 80.000.000 đồng, 290.000 Yên Nhật, 01 cây vàng hiệu SJC, 01 kiềng vàng 03 chỉ, 05 nhẫn tròn bằng vàng (loại 01 chỉ/01 nhẫn), 01 lắc tay chạm bằng vàng 02 chỉ, 01 dây chuyền vàng 03 chỉ, 04 nhẫn tròn bằng vàng (loại 02 chỉ/01 nhẫn), 02 dây chuyền bằng vàng tổng trọng lượng 05 chỉ, 01 nhẫn bằng vàng mặt vuông 01 chỉ rồi đưa cho Q giữ.

Q, T chia nhau số tiền mỗi người được 40.000.000 đồng. Còn số vàng các loại và tiền Yên Nhật thì Q đem bán được 100.000.000 đồng. Q chia cho T 35.000.000 đồng; số tiền bán 290.000 Yên Nhật được 58.000.000 đồng, Q chia cho T 16.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền được chia, Q và T đã sử dụng ăn tiêu hết.

Theo bảng cung cấp tỷ giá tiền Yên Nhật quy đổi ra tiền Việt Nam đồng ngày 09/10/2018 tại Ngân hàng Agribank Việt Nam chi nhánh huyện S, xác định:

01 Yên Nhật = 210 Việt Nam đồng. 290.000 Yên Nhật = 60.900.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐ ngày 28/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S kết luận: 01 cây vàng Nhãn hiệu SJC, 01 kiềng vàng 03 chỉ, 05 nhẫn tròn bằng vàng (01 chỉ/01 nhẫn), 01 lắc tay trạm bằng vàng 02 chỉ, 01 dây chuyền vàng 03 chỉ, 04 nhẫn tròn bằng vàng (02 chỉ/01 nhẫn), 02 dây chuyền bằng vàng tổng trọng lượng 05 chỉ, 01 nhẫn bằng vàng mặt vuông 01 chỉ có tổng giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 126.069.000 đồng.

Như vậy, tổng tài sản của gia đình ông Đỗ Văn N bị Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang T chiếm đoạt là 266.969.000 đồng.

Ông Đỗ Văn N đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang T theo quy định của pháp luật; đồng thời yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 266.969.000 đồng.

14. Vụ thứ mười bốn: Khong đêm ngày 07, sáng ngày 08/11/2018, Q và T trộm cắp của gia đình chị Dương Thị H (sinh năm 1986) ở thôn L, xã Đ, huyện S, Hà Nội 130.000.000 đồng, 150 USD (Đô la Mỹ), 01 lắc tay bằng vàng 9999 trọng lượng 03 chỉ, 01 dây chuyền vàng 9999 trọng lượng 3,5 chỉ, 04 nhẫn vàng 9999 có tổng trọng lượng 05 chỉ; chia nhau mỗi người được 65.000.000 đồng. Ngày hôm sau, Q và T mang số vàng và Đô la Mỹ đi bán tại các cửa hàng vàng bạc không nhớ địa chỉ trên địa bàn huyện Đ, Hà Nội được 36.000.000 đồng và chia nhau mỗi người được 18.000.000 đồng.

Theo kết quả xác minh tỷ giá áp dụng thu đổi ngoại tệ ngày 08/11/2018 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, chi nhánh S thể hiện: 01 USD = 23.280VNĐ. Như vậy 150 USD trị giá là 3.492.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 43/KL-HĐ ngày 03/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S, kết luận:

- 01 chiếc lắc tay bằng vàng 9999, trọng lượng 04 chỉ có giá trị là 14.440.000 đồng.

- 01 dây chuyền bằng vàng 9999, trọng lượng 3,5 chỉ có giá trị là 12.635.000 đồng.

- 03 chiếc nhẫn trơn bằng vàng 9999, mỗi chiếc có trọng lượng 01 chỉ có giá trị là 10.830.000 đồng.

- 01 chiếc nhẫn trơn bằng vàng 9999, trọng lượng 02 chỉ có giá trị là 7.220.000 đồng.

- Tổng trị giá tài sản mà hai bị can đã trộm cắp của gia đình chị Dương Thị H là 178.617.000 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, chị Dương Thị H đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 178.617.000 đồng.

15. Vụ thứ mười năm: Khoảng 0h00 ngày 11/01/2019, Q và T trộm cắp của nhà bà Nguyễn Thị X (sinh năm 1963) ở trú tại Thôn P, xã Đ, huyện S, Hà Nội 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime và 10.000.000 đồng, chia nhau số tiền mỗi người được 5.000.000 đồng. chiếc điện thoại Samsung J7 bán được 1.000.000 đồng, Q chia cho T 500.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 36/KL-HĐ ngày 24/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S kết luận: Chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime trị giá là 2.196.000 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, bà Nguyễn Thị X đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 12.196.000 đồng.

16. Vụ thứ mười sáu: Khoảng 0h00 ngày 26/07/2019, Q trộm cắp của nhà bà Nguyễn Thị B (sinh năm 1945) ở khu tập thể C, xã Đ, huyện S, Hà Nội) 25.750.000 đồng Q đã chi tiêu cá nhân hết.

Quá trình điều tra vụ án, bà Nguyễn Thị B đề nghị xử lý bị can Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 25.750.000 đồng.

17. Vụ thứ mười bảy: Khong 02h30 phút ngày 14/8/2019, Q và T trộm cắp của nhà chị Trần Thị Thu P (sinh năm 1996; ở tại thôn T, xã Đ, huyện S, Hà Nội) 02 chiếc nhẫn cưới bằng vàng tây, 01 dây chuyền bạc trọng lượng 1,5 chỉ.

1.500.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi A2 Lite Black . Khi Q đang lục tìm tài sản trên giường thì vô tình chạm vào người chị P làm chị P tỉnh ngủ, ngồi dậy. Thấy vậy, T chạy ra phía cửa sau; còn Q dùng đèn pin chiếu vào mặt chị P và cầm dao dí vào cổ chị P và nói: "Im". Chị P sợ bị đánh nên ngồi im để Q bỏ chạy theo T. Chị P đuổi theo ra đến cửa thì bị T đứng ở phía ngoài giữ cửa không cho ra. Một lúc sau thấy chị P không đẩy cửa nữa thì T và Q bỏ chạy về nhà và chia nhau mỗi người được 750.000 đồng. T không nói cho Q biết đã lấy được số nhẫn vàng, dây chuyền bạc. Ngày hôm sau, T mang số dây chuyền bạc và nhẫn vàng tây đi bán tại một cửa hàng (không xác định được địa chỉ) được 1.800.000 đồng. Toàn bộ số tiền được chia, Q và T sử dụng cá nhân hết.

Đối với chiếc điện thoại Xiaomi A2 Lite Black thì Q giữ sử dụng một thời gian rồi cho con gái là Nguyễn Thị Thu P sử dụng. Quá trình điều tra vụ án, Nguyễn Thị Thu P đã giao nộp cho Cơ quan điều tra chiếc điện thoại trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 351/KLHĐ ngày 13/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S, kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi A2 Lite Black có giá là 2.839.375 đồng.

- 01 dây chuyền bạc có giá là 1.295.000 đồng.

- 02 nhẫn cưới bằng vàng tây có giá 3.800.000 đồng.

- Tổng giá trị tài sản hai bị can đã chiếm đoạt là 9.434.375 đồng.

Ngày 18/01/2020, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc điện thoại trên cho người bị hại là chị Trần Thị Thu P. Hiện chị P đề nghị xử lý các bị can Q và T theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường tổng số tiền 9.434.375 đồng.

18. Vụ thứ mười tám: Khong 0h30 phút ngày 30/08/2019, Q và T trộm cắp của nhà chị Nguyễn Thị Ngọc A (sinh năm 1982) ở thôn D, xã Đ, huyện S, Hà Nội số tiền 2.500.000 đồng. Khi T đang lục tìm thêm tài sản trong phòng ngủ thì chị A tỉnh dậy phát hiện truy hô. Q và T chạy ra sân, trèo qua tường rào chạy thoát. Số tiền trộm cắp được Q và T đã chia nhau mỗi người được 1.250.000 đồng và sử dụng ăn tiêu hết.

Quá trình điều tra vụ án, chị Nguyễn Thị Ngọc A đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 2.500.000 đồng.

19. Vụ thứ mười chín: Khong 02h00 ngày 01/9/2019, Q và T trộm cắp, của gia đình chị Đỗ Thị N (sinh năm 1976) ở thôn D, xã Đ, huyện S, Hà Nội một điện thoại OPPO F3 và 7.140.000 đồng. Sau đó, Q chia cho T ½ số tiền trộm cắp được; ngày hôm sau Q bán chiếc điện thoại OPPO F3 cho một người không quen biết được 800.000 đồng và chia cho T 400.000 đồng. Cả hai đã sử dụng số tiền được chia vào việc ăn tiêu hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 32/KL-HĐ ngày 24/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S kết luận: Chiếc điện thoại OPPO F3 trị giá 2.796.000 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, chị Đỗ Thị N đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 9.936.000 đồng.

20. Vụ thứ hai mươi: Khoảng 0h00 ngày 23/9/2019, Q và T trộm cắp tài của nhà chị Nguyễn Thị T (sinh năm 1981) ở thôn T, xã Đ, huyện S, Hà Nội 3.270.000 đồng. Q và T chia đôi số tiền trộm cắp được và sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Quá trình điều tra vụ án, chị Nguyễn Thị T đề nghị xử lý các bị can Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Q theo quy định của pháp luật và yêu cầu bồi thường số tiền 3.270.000 đồng.

21. Vụ thứ hai mươi mốt: Sáng sớm ngày 08/10/2019, Q trộm cắp của nhà chị Trần Thị S (sinh năm 1984) ở thôn B, xã Đ, huyện S, Hà Nội 5.000.000 đồng

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã thu giữ các đồ vật và tài sản trong đó có:

- 08 sổ tiết kiệm đứng tên Ngô Thị H (vợ bị can Q) do Ngân hàng Agribank chi nhánh S cấp số 00015058823; 00015062662; 00015062663; 00015870937; 00015058821; 00013828987; 00012923507; 00015870939.

- Thu giữ do Nguyễn Thị Thu H (là con của bị can Nguyễn Văn Q) giao nộp: 01 điện thoại OPPO màu trắng bạc, có số Imei là 863069032260912.

- Thu giữ do Nguyễn Thị Minh T (là con của bị can Nguyễn Văn Q) giao nộp: 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A5 màu xanh đen, có số Imei là 358548063671362. Kết quả điều tra xác định bị can Q dùng tiền trộm cắp được để mua chiếc điện thoại trên. Q dùng chiếc điện thoại một thời gian rồi cho cháu Nguyễn Thị Minh T sử dụng.

- Đối với 08 sổ tiết kiệm (tổng số 930.000.000 đồng) thu giữ mang tên Ngô Thị H (là vợ của bị can Nguyễn Văn Q). Kết quả điều tra Nguyễn Văn Q không thừa nhận tài sản trên do trộm cắp mà có. Theo chị H khai số tiền trên của chị H tiết kiệm mà có. Tuy nhiên Cơ quan điều tra xác định là tiền chung của vợ chồng Nguyễn Văn Q nên đã phong tỏa để đảm bảo việc thi hành án dân sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 432/2020/HS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2020, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16/10/2019; Tiếp tục phong toả 08 sổ tiết kiệm (tổng số 930.000.000 đồng) thu giữ mang tên Ngô Thị H (là vợ Nguyễn Văn Q) do Ngân hàng Agribank chi nhánh S cấp số 00015058823; 00015062662; 00015062663; 00015870937; 00015058821; 00013828987; 00012923507; 00015870939 để đảm bảo việc thi hành án dân sự. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm bồi thường dân sự, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11 /11 /2020, bị cáo Nguyễn Văn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 13 /11 /2020, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Thị H kháng cáo với nội dung không đồng ý việc tiếp tục phong toả 08 sổ tiết kiệm (tổng số 930.000.000 đồng) mang tên Ngô Thị H.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyễn Văn Q khai nhận hành vi phạm tôi như bản án sơ đã quy kết, số tiền mà bị cáo trộm cắp được đều chi tiêu cá nhân hết và có dùng tiền trộm cắp được mua 01 điện thoại OPPO màu trắng bạc, có số Imei là 863069032260912 sử dụng một thời gian thì cho con là cháu Nguyễn Thị Thu H, 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A5 màu xanh đen, có số Imei là 358548063671362 sử dụng một thời gian thì cho con là cháu Nguyễn Thị Minh T; chiếc nồi áp xuất Nhãn hiệu Sharp trộm của nhà chị Vũ Thị Thanh V mang về nhà sử dụng trong gia đình. Về 08 sổ tiết kiệm (tổng số 930.000.000 đồng) thu giữ mang tên Ngô Thị H (là vợ Nguyễn Văn Q) bị cáo khai số tiền trên là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân do làm ăn lương thiện mà có, không phải tiền trộm cắp. Mức hình phạt 15 năm tù là nặng xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Thị H đề nghị không tiếp tục phong tỏa 08 sổ tiết kiệm (tổng số 930.000.000 đồng) thu giữ mang tên Ngô Thị H vì chị cho rằng đây là số tiền do chị tiết kiệm được mà có, không liên quan đến hành vi trộm cắp của Nguyễn Văn Q, chị chỉ đồng ý cho bị cáo khoảng 200.000.000 đ để khắc phục hậu quả.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự phiên tòa có quan điểm về vụ án như sau:

+ Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Q 15 năm tù là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng bác kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

+ Về việc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Thị H đề nghị không tiếp tục phong tỏa 08 sổ tiết kiệm thấy như sau tài sản này là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, việc chị H cho rằng đây là khoản tiền riêng của chị là không có căn cứ, đề nghị HĐXX bác kháng cáo của chị H.

- Người bào chữa cho bị cáo Q đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Q vì các lý do sau: Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và có mong muốn bồi thường cho các bị hại , bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ số tiền bị cáo trộm cắp được đều ăn tiêu hết, còn số tiền số 930.000.000 đồng được thể hiện ở 08 số tiết kiệm là tài sản chung của vợ chồng, do đó bị cáo để nghị được dùng khoản tiền trên để trả lại cho người bị hại là chính đáng, thể hiện thái độ khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm đã kết luận.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Thị H vẫn đề nghị không tiếp tục phong tỏa 08 sổ tiết kiệm.

Lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên, thẩm phán, thư ký trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi của các bị cáo:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Trong khoảng thời gian từ tháng 7/2013 đến tháng 10/201 9, Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quang T lợi dụng sơ hở của các gia đình ở xã Đ, huyện S, Hà Nội để nhiều lần cùng nhau cậy cửa đột nhập vào nhà trộm cắp tài sản. Trong đó: Nguyễn Văn Q tham gia 22 vụ trộm cắp tài sản của các bị hại là Đỗ Văn N, Trần Thị Thu P, Đỗ Thế Đ, Nguyễn Thị Y, Đào Thị B, Lò Thị Minh N, Đào Thị H, Hoàng Thị H, Nguyễn Văn T, Vũ Thị Thanh V, Nguyễn Thị T, Lê Văn L, Nguyễn Thị N, Ngô Thị L, Dương Thị H, Nguyễn Thị X, Nguyễn Thị B, Nguyễn Thị Ngọc A, Đỗ Thị N, Nguyễn Thị T, Trần Thị S và Nguyễn Thị H.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ; làm mất trật tự, an toàn an ninh và gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Bị cáo Nguyễn Văn Q tham gia 22 vụ trộm cắp tài sản của các bị hại, trong đó thực hiện 17 vụ trộm cắp cùng bị cáo Nguyễn Quang T, tự thực hiện 5 vụ trộm cắp. Tổng số tiền và tài sản các bị cáo trộm cắp của 22 bị hại có trị giá 825.761.644 đồng.

Trước khi quyết định hình phạt Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã cân nhắc các tình tiết tăng nặng như bị cáo phạm tội nhiều lần, tình tiết giảm nhẹ như tại Cơ quan Điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để xử phạt bị cáo 15 năm tù là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo không xuất trình được những tình tiết đặc biệt nào mới . Việc bị cáo tiếp tục có ý kiến mong muốn được bồi thường cho những người bị hại là tình tiết đã được xem xét và đánh giá ở cấp sơ thẩm, do đó không có căn cứ giảm hình phạt cho bị cáo.

Xét kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Thị H, Hội đồng xét xử thấy bị cáo Nguyễn Văn Q và chị Ngô Thị H là vợ chồng, số tiền 930.000.000 đồng trong 08 sổ tiết kiệm là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chị H cho rằng số tiền trên là của riêng của chị, chị chỉ đồng ý cho bị cáo 200.000.000 đồng để khắc phục hậu quả, nhưng chị không có tài liệu nào xuất trình để khẳng định đó là tài sản riêng của chị . Mặt khác, tại phiên tòa bị cáo Q cũng đã khẳng định đó là số tiền chung của vợ chồng.

Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Văn Q có trách nhiệm bồi thường và liên đới bồi thường tổng số 492.411.918 đồng và phải chịu 36.772.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm; tổng cộng là 526.183.918 đồng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tiếp tục phong toả 08 sổ tiết kiệm với tổng số 930.000.000 đồng để đảm bảo việc thi hành án dân sự trong khi tổng số tiền mà bị cáo Q có trách nhiệm bồi thường và liên đới bồi thường là 526.183.918 đồng là chưa đúng quy định. Hội đồng xét xử xét thấy chỉ cần phong tỏa 03 sổ tiết kiệm AC00015062663; AC00015870937; AC00015058821; có tổng số tiền là 530.000.000 đồng là đã đảm bảo việc thi hành án dân sự đối với bị cáo.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử không có căn cứ xem xét xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, chấp nhận một phần kháng cáo của chị Ngô Thị H.

[4]. Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Kháng cáo của chị Ngô Thị H được chấp nhận một phần nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự,

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 432/2020/HS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Q.

Chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Thị H, sửa một phần về việc phong toả 08 sổ tiết kiệm mang tên Ngô Thị H, cụ thể:

- Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Nghị quyết 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Xử phạt: Nguyễn Văn Q 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16/10/2019.

- Tiếp tục phong toả 03 sổ tiết kiệm số AC00015062663; AC00015870937; AC00015058821 (tổng số 530.000.000 đồng) thu giữ mang tên Ngô Thị H (là vợ Nguyễn Văn Q) do Ngân hàng Agribank chi nhánh S cấp để đảm bảo việc thi hành án dân sự.

2. Về án phí:

- Bị cáo Nguyễn Văn Q phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

- Trả lại cho chị Ngô Thị H 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm mà chị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng số AA/2018/0020950 ngày 17/11/2020 tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2021/HS-PT ngày 23/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:112/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về