Bản án 112/2017/HS-ST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 112 /2017/HS-ST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 120/2017/HS-ST, ngày 25/8/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2017/HSST-QĐ ngày 05 tháng 9 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Văn H, sinh năm: 1983; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Trương Văn T, Mẹ đẻ: Nguyễn Thị P; Vợ: Hoàng Thị T; Con: có 3 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: chưa có.

Bị cáo Trương Văn H sau khi gây án đã bỏ trốn. Ngày 15/6/2017 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình ra quyết định truy nã. Đến ngày 27/6/2017, H ra

đầu thú và được đưa vào tạm giữ đến ngày 30/6/2017 chuyển tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay.

NHẬN THẤY

Bị cáo Trương Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Trương Văn H là người nghiện ma túy. Khoảng 13h 30 phút ngày 11/5/2017, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SUPER CUP BKS 26 AA-048.91 từ nhà đến khu vực thôn Dinh Tần, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. H điều khiển xe đi dọc đường bờ đê rồi rẽ vào 01 ngồi nhà cấp bốn và đưa qua lỗ cửa sắt 200.000 đồng bên trong có 01 người (không rõ là nam hay nữ) cầm tiền và đưa qua lỗ cửa sắt cho H 02 gói nhỏ ma tuý gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng. Mua được ma túy H cầm ở tay trái rồi điều khiển xe đi, khi đi đến khu vực bờ đê sông Đáy, thuộc phố 11, phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình thì gặp Công an phường Phúc Thành, phối hợp với công an phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình đang làm nhiệm vụ thấy H có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Thấy vậy, H đã thả từ tay trái xuống đường 02 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng bị Tổ công tác phát hiện yêu cầu H nhặt lên, H tự giác nhặt 02 gói ma túy lên giao nộp cho tổ công tác và khai nhận đó là Heroine vừa mua để sử dụng. Tổ công tác tiến hành thu giữ và niêm phong vật chứng rồi đưa H cùng vật chứng về trụ sở công an phường Đông Thành lập biên bản vi phạm hành chính. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 xe mô tô SUPER CUP BKS 26 – AA 048.91.

Cân xác định trọng lượng số ma túy trong 02 gói nhỏ được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu trắng thu của Trương Văn H kết quả: Gói 01 có trọng lượng chất bột dạng cục màu trắng là 0,085 gam, ký hiệu M1; Gói 02 có trọng lượng chất bột dạng cục màu trắng là 0,095 gam, ký hiệu M2. Cơ quan công an gửi toàn bộ mẫu M1, M2 đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 111/KLGĐ-PC54-MT ngày 13/5/2017 của Phòng kĩ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

- Mẫu chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 có khối lượng 0,0837 gam; M2 có khối lượng 0,0866 gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong hai mẫu ký hiệu M1, M2 là 0,1703 gam.

- Mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong các gói ký hiệu M1, M2 gửi giám định đều là chất ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc Danh mục I. STT: 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.”

Hoàn trả lại 0,0222 gam chất bột màu trắng trong mẫu giám định M1; 0,0270 gam chất bột màu trắng trong mầu giám định ký hiệu M2 đều là chất ma túy, loại Heroine.

Quá trình điều tra Trương Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 118/CT-VKS ngày 23/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành Phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo Trương Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Khoản 1, Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình giữ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trương Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Khoản 1, Điều 194; điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3, Điều 7; Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

- Xử phạt Trương Văn H từ 16 tháng tù đến 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2017.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại cùng giấy gói ban đầu thu giữ của Trương Văn H.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản vi phạm hành chính; Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng; kết luận giám định và phù hợp với lời khai của người làm chứng. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xác định bị cáo Trương Văn H có hành vi cất giữ trong người 0,1703 gam heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân, đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, là một trong những nguyên nhân làm lây lan, gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo H là người đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rõ được tác hại của ma túy, có vợ con. Song bị cáo tu dưỡng rèn luyện bản thân, không quyết tâm cai nghiện ma túy để chăm lo cuộc sống bản thân và gia đình. Do đó, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung phòng ngừa chung. Buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt tù cách ly xã hội một thời gian tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết sau đây: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; khi có quyết định truy nã của cơ quan Công an, bị cáo ra đầu thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p, Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Mặt khác cần áp dụng những qui định có lợi cho người phạm tội theo qui định của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung: Tại khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm nhưng tại khoản 1, Điều 194 luật hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm. Do vậy, cần áp dụng khoản 3, Điều 7; khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội để xem xét quyết định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Trương Văn H tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, không mang mục đích vụ lợi, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H.

Về nguồn gốc số ma túy: Về nguồn gốc Heroine, H khai mua của một người không rõ là nam hay nữ qua lỗ cửa sắt ngồi nhà cấp bốn ở bờ đê sông Đáy thuộc xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định nên không đủ căn cứ để xác minh làm rõ. Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Số ma túy còn lại cùng giấy gói ban đầu thu giữ của Trương Văn H là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu huỷ.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SUPER CUP BKS 26 AA– 048.91 thu giữ của Trương Văn H, qua điều tra xác định là của chị Hoàng Thị T sinh năm 1985, trú tại xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam là vợ của H, việc H mượn xe để đi mua ma túy chị T không biết. Do vậy Cơ quan điều tra công an thành phố Ninh Bình đã trả lại chiếc xe trên cho chị T, chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Khoản 1, Điều 194; điểm p, Khoản 1, khoản 2, Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3, Điều 7; khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung 2017; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Trương Văn H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2017.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ Luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại thu giữ của bị cáo Trương Văn H cùng phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật.

(Chi tiết vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao vật chứng ngày 13/9/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Ninh Bình).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 1, 2 Điều 99 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trương Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 19/9/2017.

 “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2017/HS-ST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:112/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về