Bản án 1121/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 1121/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Tp. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 694/2020/TLST-HN ngày 07 tháng 8 năm 2020 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 175/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 148/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17/11/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Cẩm T, sinh năm: 1984; địa chỉ: Tổ 46, khu vực 5, phường QT, thành phố QN, tỉnh BĐ.

Bị đơn: Anh Hồ Minh K, sinh năm: 1984; địa chỉ: Tổ 46, khu vực 5, phường QT, thành phố QN, tỉnh BĐ.

(Chị T có mặt, anh K vắng mặt).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo trong quá trình tham gia tố tụng và tại phên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị Cẩm T trình bày:

Chị và anh Hồ Minh K trước khi kết hôn có tự nguyện tìm hiểu khoảng 6 năm, đến tháng 11/2006 anh chị được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới, đến ngày 03/01/2007 anh chị đăng ký kết hôn tại UBND phường Th.N, TP. QN, tỉnh BĐ. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc tại nhà cha mẹ chồng ở 211 ĐĐ, TP. QN, tỉnh BĐ. Tuy nhiên trong quá trình chung sống giữa vợ chồng chị và cha mẹ chồng đôi lúc có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh K thường xuyên bỏ nhà đi, không quan tâm đến gia đình, mỗi lần về nhà lại kiếm chuyện kình cãi. Cha mẹ anh K bênh vực anh nên giữa chị và cha mẹ chồng có lời qua tiếng lại với nhau.

Đến năm 2012 gia đình anh K bán nhà chuyển đến nơi khác sinh sống, chị và anh K chuyển về nhà cha mẹ ruột của chị tại phường QT, TP. QN sinh sống. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 lại tiếp tục phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh K sống không có trách nhiệm với gia đình, còn ham chơi, cờ bạc, không lo làm ăn, chị và gia đình chị nhiều lần khuyên giải nhưng anh K không thay đổi. Đến năm 2015 anh K xin làm phụ xe nhưng chỉ làm được thời gian ngắn lại nghỉ việc, không phụ giúp được gì để chị nuôi con. Cũng từ năm 2015 cho đến nay vợ chồng mạnh ai nấy sống, không còn tình cảm, không còn trách nhiệm với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Nay chị yêu cầu được ly hôn anh Hồ Minh K để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung là Hồ M.K, sinh ngày 20/10/2007. Hiện nay con chung đang sống với chị, sức khỏe bình thường, ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh K tự thỏa thuận tự giải quyết, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn anh Hồ Minh K:

Anh Hồ Minh K cố tình vắng mặt, không đến Tòa để làm việc, nên Tòa không lấy được lời khai.

+ Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp.QN phát biểu việc tuân thủ pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng Dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng theo qui định của pháp luật tố tụng Dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn chị Phạm Thị Cẩm T đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo qui định của Bộ luật tố tụng Dân sự được quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật TTDS. Bị đơn anh Hồ Minh K chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo qui định của Bộ luật tố tụng Dân sự được quy định tại các Điều 70 và 72 Bộ luật TTDS.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị: Áp dụng Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị Cẩm T xin ly hôn anh Hồ Minh K.

- Con chung: Chị T và anh K có 01 con chung là Hồ M.K, sinh ngày 20/10/2007. Giao con chung cho chị T nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh K đến khi có đơn yêu cầu.

- Tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Án phí HNGĐ: Chị Phạm Thị Cẩm T phải chịu 300.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Hồ Minh K là bị đơn trong vụ án, mặc dù đã được Tòa triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Do đó căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh K theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung: Chị Phạm Thị Cẩm T và anh Hồ Minh K trước khi kết hôn có tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên kình cãi. Nguyên nhân là do anh K sống không có trách nhiệm với vợ con, không chịu đi làm để lo kinh tế cho gia đình, còn ham chơi, cờ bạc. Chị T và cha mẹ hai bên nhiều lần khuyên giải nhưng anh K không thay đổi. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng sống ly thân đã lâu nên chị yêu cầu được ly hôn anh Hồ Minh K để ổn định cuộc sống.

Quá trình giải quyết vụ án anh Hồ Minh K không hợp tác, không đến Tòa làm việc mặc dù anh biết Tòa án đang giải quyết việc ly hôn giữa anh và chị T, điều này chứng tỏ anh không có thiện chí muốn hòa hợp.

Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị Cẩm T được ly hôn anh Hồ Minh K là phù hợp với Điều 51, 56 của luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị T và anh K có một con chung là Hồ M.K, sinh ngày 20/10/2007. Ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Tòa xét: Việc nuôi con sau khi ly hôn phải đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu, lâu nay cháu M.K sống với chị Thúy và cháu cũng có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó, HĐXX xét thấy nên giao cháu Hồ M.K cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu, Tòa không giải quyết.

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chị Phạm Thị Cẩm T phải chịu án phí sơ thẩm Hôn nhân gia đình.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố QN phát biểu phù hợp nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị Cẩm T được ly hôn anh Hồ Minh K.

2- Về con chung, nuôi con và cấp dưỡng nuôi con:

2.1. Chị Phạm Thị Cẩm T và anh Hồ Minh K có một con chung là Hồ M.K, sinh ngày 20/10/2007.

2.2. Giao cháu Hồ M.K cho chị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh K đến khi có đơn yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được ngăn cản. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây nh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.

3 - Tài sản chung: Chị Phạm Thị Cẩm T không yêu cầu, Tòa không giải quyết.

 4 - Án phí HNGĐST: Chị Phạm Thị Cẩm T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số số 0008321 ngày 07/8/2020 của Cơ quan thi hành án dân sự thành phố QN.

Báo cho các bên đương sự biết thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với các đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1121/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:1121/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về