Bản án 11/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 06/2021/TLST - HS ngày 25 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST - HS ngày 30/3/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 08/2021/HSST-QĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn S (Tên gọi khác: Sơn S); Sinh năm: 1978 tại:Ninh Bình;

Nơi cư trú: thôn 01, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông; Trình độ học vấn lớp: 07/12; Nghề nghiệp: làm nông; Con ông: Phạm Văn S1, sinh năm 1952; con bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1954; vợ là Cao Thị Thu H, sinh năm 1983 và có 01 con sinh năm 2002; Tiền sự: không; Tiền án: (02 tiền án): Ngày 23/02/2012 TAND huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông xử phạt 05 năm tù tại Bản án số 10/2012/HSST về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999 và ngày 24/01/2013 TAND huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm tù. Tổng hợp hình phạt chung là 07 (bảy) năm tù tại Bản án số 03/2013/HSST ngày 24/01/2013 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Hiện đang tạm đình chỉ thi hành án đối với bị cáo với lý do người chấp hành án bị HIV giai đoạn IV, đã chuyển sang AIDS, hiện bị cáo đang tại ngoại - có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Ông Hoàng Đình C - sinh năm 1981. Địa chỉ: Thôn 01, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.

2. Chị Cao Thị Thu H, sinh năm 1983. Địa chỉ: Thôn 01, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 24/11/2020, Phạm Văn S (là người nghiện ma túy), nên S đi đến xã Quảng H, huyện Đắk G’L, tỉnh Đắk Nông, gặp 01 người không rõ nhân thân lai lịch, hỏi mua ma túy với số tiền 1.000.000 đồng. Sau đó, đối tượng này đưa cho S 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa ma túy. S nhận gói ma túy rồi đi về nhà thuộc thôn 01, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông, lấy ra một phần để sử dụng, phần còn lại S cất giấu trong nhà. Sáng ngày 25/11/2020, S tiếp tục lấy ra một phần để sử dụng, phần còn lại S gói trong 02 gói giấy bạc màu vàng rồi bỏ trong gói thuốc lá hiệu War Hourse màu nâu, để trong túi quần trước bên phải. Đến 15 giờ 20 phút ngày 25/11/2020, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra đối với S và S đã tự nguyện giao nộp ma túy cho lực lượng Công an.

Tại bản kết luận giám định số 166/KLMT-PC09 ngày 30/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận: 02 gói giấy bạc màu vàng được niêm phong thu giữ của Phạm Văn S, đều là ma túy, có tổng khối lượng mẫu là 0,7897 gam, là hêrôin. Hoàn lại sau giám định còn 0,5756 gam.

Tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKS-ĐS ngày 25/3/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ Luật hình sự.

Trong quá trình điều tra, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt với lý do bị cáo bị nhiễm HIV giai đoạn IV, đã chuyển sang AIDS, chân tay co rút, đi lại khó khăn không đủ sức khỏe để tham dự phiên tòa. Bị cáo đồng ý với việc xét xử của Tòa án và không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn S từ 05 đến 06 năm tù. Tổng hợp hình phạt 07 (bảy) năm tù của bản án số 03/2013/HSST ngày 24/01/2013. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 12 đến 13 năm tù. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 0,5756 gam Hêrôin sau giám định; 01 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng, 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng là công cụ S sử dụng trái phép chất ma túy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Trong giai đoạn điều tra bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình; phù hợp với lời khai của những người làm chứng; phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có lưu trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ để xác định: Vào khoảng 15 giờ 20 phút ngày 25/11/2020, tại nhà bị cáo thuộc thôn 01, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra đối với S là đối tượng nghiện ma túy. Bị cáo đã tự nguyện giao nộp 0,7897 gam Hêrôin cho lực lượng Công an. Bị cáo đã có 02 tiền án, chưa được xóa án tích mà tiếp tục tái phạm.

Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo theo điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1; Điều 56 của Bộ luật hình sự là có căn cứ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249. “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a)..;

o) Tái phạm nguy hiểm”.

[3]. Xét hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến chế độ quản lý của nhà nước đối với chất ma túy được pháp luật nghiêm cấm. Đây cũng là nguyên nhân, tiền đề gây ra các tội phạm khác hoặc làm giảm sút kinh tế gia đình và tác động xấu đến xã hội. Mặc dù nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, cần áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015 tổng hợp hình phạt 07 năm tù của Bản án số 03/2013/HSST ngày 24/01/2013 để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền.

Đối với người bán ma túy cho bị cáo Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đang tiến hành xác minh đối tượng tách ra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ được sẽ xử lý theo quy định.

[7]. Các biện pháp tư pháp: Đối với 0,5756 gam Hêrôin còn lại sau giám định;

03 bơm kim tiêm là công cụ bị cáo sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn S 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt 07 (bảy) năm tù của Bản án số 03/2013/HSST ngày 24/01/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

* Các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,5756 gam Hêrôin còn lại sau giám định; 03 bơm kim tiêm là công cụ bị cáo sử dụng ma túy.

(Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng thể hiện ngày 05/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Song).

* Về án phí: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Phạm Văn S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về