TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 08/02/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:09/2021/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-HS ngày 26/01/2021 đối với bị cáo:
Khương Đình H , sinh ngày 26/8/1997; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Thôn N, xã Tiên L, huyện L , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khương Đức T và bà Triệu Thị H; vợ con: Chưa có; Tiền sự: Không; tiền án: 01, tại Bản án số 20/2018/HS-ST ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xử phạt Khương Đình H 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tại quyết định số 534/QĐ-TA ngày 27/09/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của H thời hạn 03 tháng, H được tha tù trước thời hạn ngày 25/01/2019 thời gian thử thách 06 tháng 14 ngày, chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 23/08/2018. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tam giam từ ngày 09/10/2020 đến nay (có mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Văn H , sinh năm 1998; nơi cư trú: Tổ dân phố M, phường K, thành phố V, tỉnh V (vắng mặt).
Anh Hoàng Đức M , sinh năm 2001; nơi cư trú: Thôn N, xã Phù L, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 09/10/2020, Khương Đình H đang làm nhân viên phục vụ và sinh sống tại quán Karaoke Phoniex nằm trong khuôn viên khách sạn Dicstar, thuộc địa phận tổ dân phố Đôn Hậu, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc thì nảy sinh ý định đi mua ma túy tổng hợp (ma túy đá) để sử dụng và nếu ai hỏi mua thì bán lại kiếm lợi nhuận. Do đó H một mình đi xe ô tô taxi (H không biết người lái taxi, biển số xe, hãng nào) đến khu vực làng Bầu, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm mua ma túy. Tại đây, H gặp một người phụ nữ không quen biết khoảng 30-35 tuổi đứng bên lề đường, H hỏi và mua được của người phụ nữ này 02 gói ma túy đá với giá 1.200.000,đ. Sau khi mua được ma túy, H cất 02 gói ma túy trong túi quần rồi về khách sạn Dicstar. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày 09/10/2020, H nhận được điện thoại của Nguyễn Văn H , sinh năm 1998, ở Phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hỏi mua của H 01 gói ma túy đá với giá 1.000.000,đ, H đồng ý và hẹn H đến khách sạn Dicstar để mua bán ma túy. Một lúc sau, H điện thoại lại cho H nói không đến được và hẹn gặp H ở khu vực siêu thị điện máy HC, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, H đồng ý. Sau khi nói chuyện với H , H thuê một xe ô tô taxi do anh Nguyễn Trung Kiên, sinh năm 1987, ở xã Tam Phúc, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc điều khiển rồi rủ Hoàng Đức M , sinh năm 2001 ở xã Phù Lưu, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (làm việc cùng H ) đi cùng. Khi đến khu vực siêu thị điện máy HC, H nhìn thấy H đang đứng trên vỉa hè đường Trần Phú, khu đô thị chùa Hà Tiên thuộc địa phận phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. H một mình xuống xe đi bộ đến gặp H . Tại đây, H đưa H số tiền 1.000.000,đ để mua ma túy, H cầm tiền tay trái và lấy 01 gói ma túy đá ở trong túi quần để bán cho H , nhưng chưa kịp bán thì đúng lúc này Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện, bắt quả tang. Do lo sợ hành vi bán trái phép chất ma túy bị phát hiện, H vứt gói ma túy đá đang cầm trên tay xuống đất thì bị cơ quan Công an phát hiện và thu giữ. Tang vật thu giữ: Thu giữ trên mặt đất cạnh vị trí Khương Đình H đang đứng 01 gói nhỏ ni lon màu trắng bên trong có chứa các tinh thể dạng đá màu trắng. H tự khai nhận đó là gói ma túy đá loại Methamphetamine của H mang đến bán cho H , niêm phong ký H A1. Thu giữ trong túi quần bên phải của Khương Đình H 01 gói nilon nhỏ màu trắng bên trong có chứa các tinh thể dạng đá màu trắng (H khai đó là gói ma túy đá loại Methamphetamine của H ) niêm phong, ký H A2; Ngoài ra thu giữ của Khương Đình H số tiền 1.000.000,đ; 01 điện thoại di động mang nhãn H Iphone 6s màu đen bạc đã cũ, đã qua sử dụng.
Ngày 09/10/2020, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của H tại quán Karaoke Phoniex tại phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Kết quả khám xét: không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.
Cùng ngày 09/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định ma túy trong mẫu ký H A1, A2 thu giữ của Khương Đình H . Tại Kết luận giám định số 2614/KLGĐ ngày 13/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:
“Tinh thể dạng đá của mẫu ký H A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2010g (Không phảy hai không một không gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.
Tinh thể dạng đá của mẫu ký H A2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,8185g (Không phảy tám một tám năm gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.” Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: 0,9285 gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong dán kín trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”.
Về nguồn gốc số ma túy H khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 09/10/2020, tại khu vực làng Bầu, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, H gặp và hỏi mua được 02 gói ma túy đá loại Methamphetamine với giá 1.200.000,đ của một người phụ nữ không quen biết, mục đích sử dụng cho bản thân và có ai hỏi mua thì bán kiếm lời.
Cáo trạng số 15/CT-VKSTP.VY ngày 18/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Khương Đình H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Khương Đình H khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Đức M quá trình điều tra và tại phiên tòa khai nhận phù hợp với nội dung trên; anh Nguyễn Văn H vắng mặt nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung nêu trên (từ bút lục 89-99).
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Khương Đình H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,0285 gam mẫu (Methamphetamine) và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định; tịch thu, bán sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di đông Iphone 6S và số tiền 1.000.000,đ do liên quan đến việc phạm tội; không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Khương Đình H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người liên quan về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 19 giờ ngày 09/10/2020, tại khu vực vỉa hè khu đô thị chùa Hà Tiên, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Khương Đình H đang thực hiện hành vi bán trái phép 01 gói ma túy chứa các tinh thể dạng đá màu trắng với giá 1.000.000,đ cho Nguyễn Văn H , thì bị lực lượng Công an phát hiện, lập biên bản bắt phạm tội quả tang. Thu giữ cạnh vị trí H đang đứng 01 gói nhỏ ni lon màu trắng chứa các tinh thể dạng đá màu trắng H mang đi để bán cho H (niêm phong ký H A1), thu giữ trong túi quần H đang mặc 01 gói nilon màu trắng chứa các tinh thể dạng đá màu trắng, H mang theo để bán cho ai có nhu cầu để kiếm lời (niêm phong ký H A2). Kết quả giám định gói A1 có khối lượng là 0,2010g ma túy loại Methamphetamine; gói A2 khối lượng là 0,8185g ma túy loại Methamphetamine. Tổng khối lượng 02 gói ma túy Methamphetamine H mang đi để bán kiếm lời là 1,0195g, hoàn lại sau giám định 0,9285 gam mẫu và toàn bộ bao gói. Ngoài ra thu giữ của H 1.000.000,đ do H vừa bán ma túy cho H mà có và 01 chiếc điện thoại IphoneS6 màu đen bạc đã cũ.
Hành vi nêu trên của bị cáo Khương Đình H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có khung hình phạt đến 07 năm tù.
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý xã hội, chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù thuộc tội phạm nghiêm trọng.
Trước khi phạm tội bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện tu dưỡng bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi bán ma túy để kiếm lời, bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo bị cáo sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo” để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trước khi phạm tội bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.
[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và hành vi liên quan trong vụ án: Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho H , ngoài lời khai của H mô tả người phụ nữ khoảng 30-35 tuổi, người gầy, tóc ngang vai, cao khoảng 1,5m, Cơ quan điều tra chưa làm làm rõ được nhân thân lai lịch cụ thể của người phụ nữ này. Do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra khi nào làm rõ, xử lý sau.
Đối với Nguyễn Văn H là người thỏa thuận mua ma túy đá loại Methamphetamine của H để sử dụng cho nhu cầu nghiện hút của bản thân. H đã đưa tiền cho H nhưng chưa kịp cầm ma túy thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt giữ. Do đó chưa đủ căn cứ để xử lý đối với H về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý gì đối với H mà tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương nơi H cư trú để quản lý, theo dõi.
Đối với anh Hoàng Đức M là người được H rủ đi cùng và anh Nguyễn Trung Kiên là người là lái xe taxi được H thuê đưa đến khu vực siêu thị HC để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định anh Minh, anh Kiên không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của H . Do vậy cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Về điện thoại H sử dụng để liên lạc trao đổi, mua bán ma túy với H , quá trình điều tra H khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khi đang ngồi ở quán nước khu vực siêu thị điện máy HC, H mượn điện thoại của một nam thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch rồi lắp sim điện thoại của H để liên lạc, trao đổi với H mua bán ma túy. Sau khi sử dụng xong, H trả lại điện thoại cho người này và cũng không trao đổi, mua bán trái phép chất ma túy đối với người này. Sau đó H đã làm rơi mất sim điện thoại, không thu giữ được. Về phía H , sau khi bị bắt, Cơ quan điều tra đã kiểm tra lịch sử cuộc gọi của H , nhưng trước đó H đã xóa hết nên không xác định được số điện thoại của H gọi đến. Do vậy, cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý.
[5] Về Vật chứng của vụ án: Tịch thu, tiêu hủy 0,9285 gam ma túy Methamphetamine mẫu và toàn bộ bao gói sau giám định.
Số tiền 1.000.000,đ thu giữ của H . Quá trình điều tra xác định là tiền H vừa bán ma túy cho H mà có. Nên tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S màu đen, bạc đã cũ thu giữ của H . Quá trình điều tra xác định là tài sản của H , ngày 09/10/2020, H đã sử dụng để liên lạc trao đổi mua bán trái phép chất ma túy với H , nên tịch thu, bán sung quỹ Nhà nước.
[6] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Khương Đình H 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 09/10/2020.
Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
- Tịch thu, tiêu hủy 0,9285 gam ma tuý Methamphetamine cùng toàn bộ bao gói còn lại sau giám định.
- Tịch thu, bán, xung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn H Iphone6S màu đen bạc đã cũ và số tiền 1.000.000,đ đã thu giữ của H sử dụng vào việc phạm tội. (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/01/2021).
Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Khương Đình H phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án 11/2021/HS-ST ngày 08/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 11/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về