Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2021/TLST- HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXX-ST ngày 04 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N; địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện H, tỉnh Quảng Trị; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu Q; địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/3/2021, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị và anh Nguyễn Hữu Q kết hôn tự nguyện vào năm 2018, có đăng ký tại UBND xã S, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Trong quá trình chung sống, do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vả. Không khắc phục được mâu thuẫn nên chị N đã bỏ về nhà mẹ đẻ để ở từ tháng 2/2019. Vì tình cảm vợ chồng không còn nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Hữu Q.

Về nuôi con chung: Chị và anh Nguyễn Hữu Q có một con chung là cháu Nguyễn Ngọc Kiều M, sinh ngày 25/8/2018. Chị N có nguyện vọng được trực tiếpnuôi cháu Nguyễn Ngọc Kiều M và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con, bởi vì từ khi sinh cháu M đến nay chị là người trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu, đảm bảo cho cháu học hành và phát triển.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía anh Nguyễn Hữu Q, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên tòa và quyết định hoãn phiên tòa. Tuy nhiên anh Q vắng mặt, không đến tham gia tố tụng tại các phiên họp, phiên tòa và không trình bày ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Lăng phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39, 68, 96, 97, 175, 177, 178, 195, 196, 203, 220, 233 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cụ thể: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý, quan hệ tranh chấp, tư cách tham gia tố tụng, xác minh, thu thập chứng cứ; thực hiện việc tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo các phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, tuân thủ quy định của pháp luật về thời hạn thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn hoãn phiên tòa và thực hiện việc chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát trước khi tham gia phiên tòa.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Hữu Q chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không đến phiên tòa và không có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Hữu Q là đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Hữu Q kết hôn tự nguyện, có đăng ký theo quy định pháp luật. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, vợ chồng đã không chung sống cùng nhau từ tháng 2/2019 đến nay. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Hữu Q là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung không thể kéo dài, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận đơn khởi kiện, cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Hữu Q. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Kiều M, sinh ngày 25/8/2018 cho chị Nguyễn Thị N nuôi dưỡng, anh Nguyễn Hữu Q không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Sau khi xem xét yêu cầu của nguyên đơn, xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hải Lăng theo quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa đúng trình tự thủ tục tố tụng cho nguyên đơn chị Nguyễn Thị N và bị đơn anh Nguyễn Hữu Q. Chị Nguyễn Thị N đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Anh Nguyễn Hữu Q hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình nhưng không đến tham gia tố tụng tại phiên họp và phiên tòa mà không có lý do. Vì vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Hữu Q.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Hữu Q kết hôn tự nguyện, có đăng ký tại tại UBND xã S, huyện H, tỉnh Quảng Trị vào năm 2018. Trong quá trình chung sống, vợ chồng chị N thường xảy ra mâu thuẫn do không hòa hợp tính tình, cách sống. Không khắc phục được mâu thuẫn nên chị N đã về nhà mẹ đẻ để sống từ tháng 2/2019 đến nay, không còn chung sống với anh Q.

Tại biên bản xác minh ngày 05/5/2021, Hội liên hiệp phụ nữ xã S xác nhận: Chị N và anh Q kết hôn vào năm 2018, quá trình chung sống có xảy ra mâu thuẫn và hiện nay hai vợ chồng sống ly thân.

Xét thấy, chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Hữu Q không còn quan tâm, chăm sóc nhau, mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của chị Nguyễn Thị N xin ly hôn anh Nguyễn Hữu Q là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, cần chấp nhận.

[4] Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Hữu Q có một con chung là cháu Nguyễn Ngọc Kiều M, sinh ngày 25/8/2018. Chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu M và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con. Xét, hiện cháu M dưới 36 tháng tuổi, được chị N chăm sóc và nuôi dưỡng từ nhỏ. Bản thân chị N có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, đảm bảo điều kiện nuôi con. Vì vậy, cần giao cháu M cho chị N nuôi dưỡng như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Lăng là phù hợp với các quy định của pháp luật, anh Nguyễn Hữu Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Nguyễn Hữu Q.

Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Kiều M, sinh ngày 25/8/2018 cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Hữu Q không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp tại biên lai số AA/2018/0002322 ngày 31/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Chị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về