Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 19/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 519/2021/TLST-HNGĐ ngày 21-10-2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11-01-2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐST-HN ngày 26-01-2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trương Thị Mỹ D, sinh năm 1989:

Địa chỉ cư trú: Số 118, ấp PB, xã PA, huyện PT, tỉnh An Giang. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Đoàn Anh H, sinh năm 1981:

Địa chỉ cư trú: Số 13, đường NVC, khu phố B, phường H, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12-10-2020, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trương Thị Mỹ D trình bày:

Chị và anh H tự nguyện chung sống vào năm 2007, đến năm 2009 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thị xã TN (nay là thành phố TN), tỉnh Tây Ninh.

Quá trình chung sống, vợ chồng liên tục bất hòa, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc do anh H đam mê cờ bạc, không chăm lo cho gia đình, vợ con. Khoảng 03 năm trở lại đây vợ chồng sống chung nhà nhưng không quan tâm, không nói chuyện với nhau. Tháng 8-2020 chị đã làm đơn ly hôn nhưng đã rút đơn kiện, cho đến nay anh H vẫn không thay đổi nên chị yêu cầu được ly hôn với anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Nguyễn Trương Mỹ N, sinh năm 2009. Ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa chị D vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

* Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù bị đơn Nguyễn Đoàn Gia H đã được tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng không đến Tòa làm việc, không có ý kiến trình bày.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn chị D có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do.

+ Về nội dung: Căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự ; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Mỹ D.

Cho ly hôn giữa chị Trương Thị Mỹ D và anh Nguyễn Đoàn Anh H. Giao con chung Nguyễn Trương Mỹ N, sinh ngày 22-6-2009 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận chị D không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung: Không có.

Chị D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết : Chị Trương Thị Mỹ D khởi kiện yêu cầu ly hôn, yêu cầu được nuôi con chung đối với anh Nguyễn Đoàn Anh H, cư trú tại phường H, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh. Do vậy vụ án có quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh H đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật tại Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh H tự nguyện chung sống vào năm 2007, đến năm 2009 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thị xã TN (nay là thành phố TN), tỉnh Tây Ninh. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Theo lời trình bày của chị D, cuộc sống vợ chồng giữa chị và anh H không hạnh phúc, do anh H đam mê cờ bạc không chăm lo cho gia đình, vợ con; anh chị đã không còn tình cảm vợ chồng.

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ nhiều lần từ khi thụ lý vụ án cho đến phiên tòa hôm nay nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của chị D. Điều này cho thấy, anh H không có biểu hiện, động thái tích cực nào để giải quyết mâu thuẫn vợ chồng, thuyết phục chị D hàn gắn đoàn tụ vợ chồng.

Hội đồng xét xử nhận thây  cuộc sống hôn nhân của chị D, anh H không mang lại hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không co kha năng đoan tu. Do đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị D đối với anh H theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên là Nguyễn Trương Mỹ N, sinh ngày 22-6-2009. Ly hôn, chị D yêu cầu được nuôi con, cháu N có nguyện vọng chung sống với chị D nên cần giao cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận chị D không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị D trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị D phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

[4] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhân yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Mỹ D về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Nguyễn Đoàn Anh H.

1.1. Cho ly hôn giữa chị Trương Thị Mỹ D và anh Nguyễn Đoàn Anh H.

1.2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Trương Mỹ N, sinh ngày 22-6-2009 cho chị Trương Thị Mỹ D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận chị D không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung theo quy định pháp luật mà không ai được cản trở.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trương Thị Mỹ D phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí khởi kiện chị đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0000691 ngày 19-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Chị D đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành hành án dân sự. án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 19/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về