TÒA ÁN NHÂN DÂN HỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Hện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1213/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 402/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 207/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Thu H, sinh năm 1990; (có mặt) Địa chỉ: Ấp BT 2, xã H, Hện N, tỉnh Long An.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh Ph, sinh năm 1987; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 1, xã Đ, Hện N, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 31/7/2020, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Phạm Thị Thu H trình bày: Bà và ông Nguyễn Thanh Ph cưới nhau năm 2007. Năm 2009, bà và ông Ph mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Hòa Đông ngày 22/4/2009. Thời gian đầu, vợ chồng bà chung sống hạnh phúc. Đến năm 2019, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải vả nhau. Nguyên nhân chính là do ông Ph có mối quan hệ trai gái bên ngoài. Bà đã nhiều lần kHên ngăn ông Ph thay đổi để lo chăm sóc gia đình, lo làm ăn nhưng ông Ph vẫn không thay đổi. Bà và ông Ph đã ly thân với nhau từ tháng 4 năm 2019 cho đến nay. Bà và ông Ph cũng không liên hệ qua lại. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Thanh Ph.
Về nuôi con chung: Trong quá trình chung sống, bà và ông Ph có 03 người con chung tên Nguyễn Quốc H, sinh ngày 26/3/2009; Nguyễn Hoàng D, sinh ngày 05/05/2010 và Nguyễn Ngọc Tuệ L, sinh ngày 20/10/2018. Khi ly hôn, bà H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi 03 con chung và không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng nuôi con.
Về chia tài sản: Bà H xác định bà và ông Ph không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Bà H xác định bà và ông Ph không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Thanh Ph đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án thể hiện việc bà H yêu cầu ly hôn với ông Ph, nhưng ông Ph vẫn vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà H.
Vụ án đã được Tòa án công khai chứng cứ theo quy định của pháp luật, nhưng không tiến hành hòa giải được do ông Ph luôn vắng mặt và bà H có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải do đó vụ án được đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt. Nguyên đơn có mặt vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Phạm Thị Thu H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Thanh Ph. Ông Ph đang cư trú tại xã Đ, Hện N, tỉnh Long An. Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân Hện Đức Hòa, tỉnh Long An theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Nguyên đơn là bà Phạm Thị Thu H có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án, nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.
[3] Bị đơn là ông Nguyễn Thanh Ph đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Ph.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Thu H:
[4.1] Về hôn nhân: Xét thấy, bà Phạm Thị Thu H và ông Nguyễn Thanh Ph tự nguyện sống chung và đã đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 66/2009 đăng ký ngày 22/4/2009 do Ủy ban nhân dân xã Đ, Hện N, tỉnh Long An cấp, nên xác định hôn nhân giữa bà H và ông Ph là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét thấy, quá trình chung sống giữa bà H và ông Ph đã phát sinh mâu thuẫn và đã ly thân nhau từ tháng 4 năm 2020 đến nay không Hn gắn tình cảm được. Bà H yêu cầu ly hôn với ông Ph, ông Ph đã nhận được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án thể hiện việc bà H yêu cầu Tòa án nhân dân Hện Đức Hòa giải quyết cho bà được ly hôn với ông Ph nhưng ông Ph luôn vắng mặt, không có ý kiến phản đối. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa Bà H và ông Ph là có thật, quan hệ hôn nhân của hai bên đã L vào tình trạng trầm trọng, tình cảm tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, bà H yêu cầu ly hôn với ông Ph là có cơ sở, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Phạm Thị Thu H được ly hôn với ông Nguyễn Thanh Ph.
[4.2] Về nuôi con chung: Theo quy định tại các Điều 58, Điều 81, Điều 82. Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “…Vợ, chồng được quyền thỏa thuận người trực tiếp nuôi con…; Nếu con từ 07 (bảy) tuổi trở len thì xem xét nguyện vọng của con…”. Tại thời điểm xét xử, con chung tên Nguyễn Quốc H, sinh ngày 26/3/2009 và Nguyễn Hoàng D, sinh ngày 05/5/2010 đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng muốn sống chung với bà H; Riêng con chung tên là Nguyễn Ngọc Tuệ L, sinh ngày 20/10/2018 dưới 36 tháng tuổi. Ông Ph luôn vắng mặt nên các bên không thể thỏa thuận về việc nuôi con chung. Hiện tại, 03 con chung đang sống chung và do bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện nay, bà H và các con đang ở chung với cha mẹ ruột của bà H tại xã Đức Hòa Hạ, Hện Đức Hòa, tỉnh Long An nên có chỗ ở ổn định. Bà H xác định lương thu nhập bằng nghề tự do khoảng 7.000.000 đồng tháng nên bà H vẫn đảm bảo điều kiện nuôi các con. Do đó, trên cơ sở cân nhắc điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, ý kiến, nguyện vọng của cháu H và D nhằm để đảm bảo cho sự ổn định trong cuộc sống, phát triển bình thường của các cháu nên Hội đồng xét xử xét thấy cần để cho bà H được quyền tiếp tục nuôi dưỡng 03 con chung là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông Ph phải cấp dưỡng nuôi con.
[4.3] Về tài sản chung và nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án, ông Ph luôn vắng mặt. Bà H xác định bà H và ông Ph không có tài sản chung và không có nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giả quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vấn đề chia tài sản và nợ chung của bà H, ông Ph. Nếu sau này, các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[5] Về án phí: Buộc bà Phạm Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 177, Điều 179, Điều 227, Điều 228, Điều 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Thu H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với ông Nguyễn Thanh Ph.
1. Về hôn nhân: Cho bà Phạm Thị Thu H được ly hôn với ông Nguyễn Thanh Ph.
2. Về nuôi con chung: Bà Phạm Thị Thu H được quyền tiếp tục nuôi dưỡng các con chung tên là Nguyễn Quốc H, sinh ngày 26/3/2009; Nguyễn hoàng D, sinh ngày 05/05/2010 và Nguyễn Ngọc Tuệ L, sinh ngày 20/10/2018. Ông Nguyễn Thanh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Khi thấy cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Buộc Bà Phạm Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nộp vào ngân sách nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006805 ngày 09/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Hện Đức Hòa, tỉnh Long An. Bà Phạm Thị Thu H đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn là Bà Phạm Thị Thu H có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn là ông Nguyễn Thanh Ph vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.
5. Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 11/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về