Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 02/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 02 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2021/TLST-HNGĐ, ngày 11/5/2021 về : “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/6/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16 ngày 16/6/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bùi Thị H, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn A, YR, KB, Đăk Lăk

Bị đơn: Lê Hoàng G, sinh năm: 1979 Địa chỉ: Thôn A, YR , KB, Đăk Lăk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tại bản tự khai và các biên bản hòa giải, chị Bùi Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Tôi và anh Lê Hoàng G tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2012, chúng tôi có đăng ký kết hôn tại UBND xã YR, KB, Đăk Lăk . Tuy nhiên, khoảng từ năm 2017 đến nay thì vợ chồng tôi xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không hiểu nhau, không có sự tin tưởng nhau. Mặc dù vậy , chúng tôi vẫn còn nói chuyện được với nhau. Tuy nhiên, từ khoảng tháng 10/2019 đến nay thì chúng tôi không còn nói chuyện với nhau được nữa. Tôi nấu cơm cho mẹ con tôi ăn rồi tôi đi làm còn anh G đi đâu tôi không biết. Từ cuối năm 2019 đến khoảng tháng 4/2021 thì anh G mang quần áo, đồ đạc cá nhân đi đâu không nói gì cho tôi biết nhưng qua tìm hiểu thì tôi biết anh G về nhà cha mẹ đẻ của anh G ở thôn A, YR để sinh sống. Đến khoảng cuối tháng 4 đầu tháng 5/2021 thì tối lại anh G về nhà để ngủ. Ban ngày, anh G lại đi Vợ chồng tôi cũng không nói chuyện với nhau. Nhận thấy không thể hòa hợp được nên tôi đề nghị Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, Đăk Lăk giải quyết cho tôi được ly hôn với anh G.

Về con chung: Tôi và anh Lê Hoàng G có một người con chung là Lê Hoàng Gia H, sinh ngày 18/06/2013. Khi ly hôn, tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, tôi không yêu cầu anh Lê Hoàng G đóng góp phí tổn nuôi con.

Về tài sản chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Tôi đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bản thân tôi là cá nhân thuộc hộ nghèo của địa phương. Vì vậy, đề nghị Tòa án xem xét miễn , giảm tiền án phí cho tôi.

Tại các bản tự khai và các biên bản hòa giải tại Tòa án, anh Lê Hoàng G trình bày:

Về hôn nhân: Tôi đồng ý với ý kiến với cô Bùi Thị H về việc: Tôi và cô H tự nguyện kết hôn với nhau năm 2012, chúng tôi có đăng ký kết hôn tại UBND xã YR, KB, Đăk Lăk.

Mặc dù vợ chồng có mâu thuẫn với nhau là do từ khi tôi bị tai nạn cụt một chân, tôi không làm ra tiền. Mặt khác, cô H ra ngoài đi chơi, ngoại tình với người khác tôi nói không được từ đấy phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng hay cãi nhau. Mặc dù vậy nhưng tôi không muốn vợ chồng ly hôn mà muốn gia đình đòan tụ để cùng nuôi dạy con.

Về con chung : Vợ chồng tôi có một người con chung là Lê Hoàng Gia H, sinh ngày 18/06/2013. Trường hợp phải ly hôn, tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, tôi không yêu cầu cô Bùi Thị H đóng góp phí tổn nuôi con.

Về tài sản chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Tôi đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bản thân tôi là cá nhân thuộc hộ nghèo của địa phương. Vì vậy, đề nghị Tòa án xem xét miễn , giảm tiền án phí cho tôi.

Tại biên bản lấy lời khai của cháu Lê Hoàng Gia H, sinh năm : 2013, cháu H trình bày: Khi cha mẹ cháu ly hôn thì cháu muốn ở với mẹ vì cháu ở với mẹ từ nhỏ.

Tại biên bản xác minh ngày 28/5/2021, đại diện chính quyền địa phương cho biết: Vào khoảng tháng 6/2020, Công an xã nhận được thông tin từ ban tự quản thôn A, YR, KB, Đăk Lăk về việc anh Lê Hoàng G và chị Bùi Thị H có xảy ra mâu thuẫn. Khi Công an xã xuống hiện trường thì thấy em gái của anh Lê Hoàng G là chị Lê Thị X và chị Bùi Thị H đánh nhau , xung quanh vấn đề tình cảm của vợ chồng anh G – chị H. Do vậy, Công an xã đã mời chị H và chị X về trụ sở UBND xã làm việc và xử phạt vi phạm hành chính đối với chị X và chị H.

Tại phiên tòa hôm nay, Chị Bùi Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh G Về con chung: Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung khi vợ chồng ly hôn vì cháu là con gái, từ nhỏ chị là người đã nuôi dưỡng , chăm sóc con. Hơn nữa, chị là người khỏe mạnh đủ sức khỏe để làm lụng, chăm sóc con. Còn anh Lê Hoàng G bị tại nạn cụt một chân, sức khỏe yếu nên không thể chăm sóc, nuôi dưỡng con được.

Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị đề nghị được miễn án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh Lê Hoàng G vắng mặt tại phiên tòa .

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Bông, Đăk Lăk đề nghị:

Về hôn nhận: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Bùi Thị H đối với anh Lê Hoàng G.

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là Lê Hoàng Gia H cho chị Bùi Thị H trực tiếp nuôi dưỡng Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G vì họ là các cá nhân thuộc hộ nghèo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày và xác nhận của đương sự trước phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Chị Bùi Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” với anh Lê Hoàng G. Các đương sự đều có hộ khẩu thường trú tại thôn A, YR, KB, Đăk Lăk. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, mặc dù, Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, Đăk Lăk đã được triêu tập hợp lệ nhưng đây là lần thứ hai phiên toà được mở nhưng anh Lê Hoàng G vẫn vắng mặt tại phiên toà không lý do. Do vậy, căn cứ vào Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự: Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2012. Có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã YR, KB, Đăk Lăk . Do vậy, hôn nhân giữa chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G là hôn nhân hợp pháp.

Tuy nhiên, vợ chồng anh chị gần đây thường xảy ra mâu thuẫn do không còn tin tưởng và tôn trọng nhau. Từ năm 2017 đến nay, khi anh G bị tai nạn cụt một chân thì vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn hơn .

Mặc dù, anh Lê Hoàng G không muốn ly hôn, muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng trong một khoảng thời gian dài, cả anh Lê Hoàng G và chị Bùi Thị H không có phương án hòa giải, bỏ qua cho nhau để cùng lo cho cuộc sống gia đình. Nhận thấy, mâu thuẫn giữa chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G đã trầm trọng, hôn nhân không thể hàn gắn được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Thị H đối với anh Lê Hoàng G.

Về con chung: Chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G có 01 người con chung là Lê Hoàng Gia H, sinh ngày 18/06/2013.

Để đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên, cần giao cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Hoàng Gia H, sinh ngày 18/06/2013.

- Về cấp dưỡng: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung : Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G tự nguyện chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là phù hợp với quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G là các cá nhân thuộc hộ nghèo của xã. Mặt khác, anh Lê Hoàng G và chị Bùi Thị H cũng đã có đơn xin miễn, giảm tiền án phí Dân sự sơ thẩm nên căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí Dân sự sơ thẩm cho anh Lê Hoàng G và chị Bùi Thị H.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 48; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị H về việc xin ly hôn với anh Lê Hoàng G.

Giấy chứng nhận kết hôn số 42, ngày 22/3/2012 do Ủy ban nhân dân xãYR, KB, tỉnh Đắk Lắk cấp cho chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G hết hiệu lực kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung: Giao con chung là Lê Hoàng Gia H, sinh ngày 18/06/2013 cho chị Bùi Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Lê Hoàng G vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật như: có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền này.

Để đảm bảo quyền lợi chung của con chưa thành niên, các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[3] Về án phí: Miễn toàn bộ án phí Hôn nhân và gia đình cho chị Bùi Thị H và anh Lê Hoàng G .

[4] Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn – chị Bùi Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn – anh Lê Hoàng G có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 02/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Bông - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về