Bản án 11/2020/HSST ngày 21/04/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 11/2020/HSST NGÀY 21/04/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 21 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 20/2020/HSST ngày 21 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Văn L; Sinh năm 1994, tại tỉnh L Đ. Nơi cư trú: Thôn M Đ, xã M L, huyện C T, tỉnh L Đ. Nghề nghiệp: Làm thuê; giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Đặng Văn P (đã chết) và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1947; Tiền sự, Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/8/2019 cho đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Đại diện gia đình người bị hại: Bà Triệu Thị T, sinh năm 1976. (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn 4, xã Đ H, huyện B Đ, tỉnh B P.

- Bị đơn dân sự: Ông Nguyễn Công H, sinh năm 1983. (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn 4, xã Đ H, huyện B Đ, tỉnh B P.

- Người làm chứng:

+ Anh Nông Văn V2, sinh năm 1992. (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn 1, xã Đ H, huyện B Đ, tỉnh B P

+ Anh Tô Xuân Th, sinh năm 2000. (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn M Đ, xã M L, huyện Cá T, tỉnh L Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Văn L được anh Nguyễn Công H thuê đến phụ giúp đám cưới tại nhà hàng tiệc cưới “Đ H”, thuộc thôn 4, xã Đ H trong ngày 22/6/2019. Buổi sáng ngày 22/6/2019 anh H điều khiển xe Ôtô tải biển số: 70C - 059.60 đến khu vực đất trống thuộc khu dựng bia tưởng niệm liệt sĩ, giáp nhà hàng tiệc cưới “Đ H”. Khoảng 13 giờ 00 cùng ngày L dọn dẹp đồ trong nhà hàng ra xe anh H để đi về, thấy xe của anh H có cắm sẵn chìa khóa trong ổ, mặc dù không có giấy phép lái xe ô tô và cũng chưa được sự đồng ý của anh H, nhưng L vẫn lên cabin điều khiển xe ôtô tải biển số: 70C - 059.60 lùi từ khu vực đất trống thuộc khu dựng bia tưởng niệm liệt sĩ ra đường ĐT 755B, lúc này nắp thùng phía sau xe ôtô mở, đồng thời có anh Tô Xuân Th đi bộ ra đường quan sát cho L lùi xe. Khi L đang lùi xe, anh Th phát hiện có xe Môtô biển số: 93L1 - 309.77 do ông Ngô Văn V1 điều khiển chạy từ hướng huyện C T, tỉnh L Đ về hướng xã T N nên hô lên cho L dừng lùi xe, nhưng do L không nghe rõ và thiếu quan sát nên L tiếp tục lùi xe, khi đuôi xe ra đến gần tim đường thì xảy ra va chạm với xe mô tô do ông V1 điều khiển. Hậu quả ông V1 tử vong trên đường đi cấp cứu, xe môtô bị hư hỏng.

Tại kết luận giám định số: 191/2019/GĐPY ngày 26/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B P kết luận: Ngô Văn V1 bị chấn thương bụng kín gây vỡ gan, tràn máu ổ bụng, sốc mất máu cấp dẫn đến tử vong (bl: 65, 66).

- Tại kết luận định giá tài sản số 66/KL-ĐG ngày 25/9/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện B Đ kết luận: Xe Môtô biển số 93L1-309.77 bị hư hỏng thiệt hại tổng cộng 2.391.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì về tội danh mà bị cáo bị truy tố. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo.

Tại bản cáo trạng số: 28/CTr-VKS ngày 21/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B Đ truy tố bị cáo Đặng Văn L về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Về hình phạt, áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 260; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đặng Văn L 03 năm tù, nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách 05 năm; Về bồi thường thiệt hại đã giải quyết xong không đề cập; Về vật chứng vụ án, đề nghị trả lại xe ô tô và xe mô tô cho bị đơn và đại diện hợp pháp cho bị hại; buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo Đặng Văn L thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Người đại diện hợp pháp cho bị hại không có ý kiến về phần hình phạt và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo định giá tài sản trong Tố tụng hình sự.

Bị đơn dân sự không có ý kiến tranh luận gì về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng yêu cầu được nhận lại xe ô tô.

Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện B Đ, Viện kiểm sát nhân dân huyện B Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và xác định tội danh đối với bị cáo:

Khoảng 13 giờ 00 ngày 22/6/2019, Đặng Văn L không có giấy phép lái xe nhưng tự ý điều khiển xe ôtô tải biển số: 70C - 059.60 lùi từ khu vực đất trống thuộc khu dựng bia tưởng niệm liệt sĩ xã Đ H ra đường ĐT 755B do thiếu quan sát nên khi điều khiển đuôi xe ra đến gần tim đường thì va chạm với xe Môtô biển số: 93L1 - 309.77 do ông Ngô Văn V1 điều khiển xe chạy từ hướng huyện C T, tỉnh L Đ về hướng xã T N. Hậu quả ông V1 tử vong trên đường đi cấp cứu, xe Môtô biển số 93L1- 309.77 bị hư hỏng trị giá 2.391.000 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Đặng Văn L không có giấy phép lái xe ô tô nhưng tự ý điều khiển xe ô tô, lùi xe không quan sát gây thiệt hại tính mạng và tài sản của người khác đã vi phạm Khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ năm 2008 và phạm “Tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự, cụ thể:

Điều 16. Luật giao thông đường bộ quy định:

“1. Khi lùi xe, người điều khiển phải quan sát phía sau, có tín hiệu cần thiết và chỉ khi nào thấy không nguy hiểm mới được lùi”.

Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định:

..................................................................

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

...................................................................

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B Đ truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình không tuân thủ luật giao thông đường bộ, lường trước hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra nhưng do chủ quan nên gây ra tại nạn. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng và tài sản của người khác và còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn giao thông tại địa phương.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt; Người đại diện hợp pháp cho bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị cho bị cáo hưởng án treo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Bị cáo nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú ổn định, đã bị tạm giam một thời gian dài đủ để bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình nên không cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo, giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình bị cáo để bị cáo tự cải tạo mình thành người có ích cho xã hội là phù hợp.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Phía gia đình người bị hại yêu cầu bồi thường về tính mạng 100.000.000đ, bồi thường xe mô tô 10.000.000đ; Bị đơn dân sự và bị cáo đã bồi thường theo yêu cầu của gia đình người bị hại. Tại phiên tòa người đại diện gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án: 01 xe Ôtô biển số: 70C - 059.60 có nguồn gốc của bà Trần Thị L, sinh năm 1972, nơi cư trú: Tổ 2, xóm M 1, xã T B, huyện C T, tỉnh T N đứng tên trong giấy đăng ký đã bán cho người khác; Anh Nguyễn Công H mua lại xe trên chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu và hiện nay xe đã hết hạn sử dụng nhưng xác định vẫn là tài sản hợp pháp của anh H; việc bị cáo điều khiển xe gây tai nạn anh H không có lỗi, vì vậy cần trả lại xe ô tô trên cho anh H là phù hợp.

- 01 xe Mô tô biển số: 93L1 – 309.77 do ông Ngô Văn V1 đứng tên sở hữu. Qúa trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa người đại diện hợp pháp cho bị hại và bị cáo thỏa thuận bị cáo đã bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 10.000.000đ, sau khi nhận lại xe phía gia đình bị hại chuyển giao quyền sở hữu xe mô tô trên cho bị cáo sửa chữa làm phương tiện đi lại, nhưng không yêu cầu ghi nội dung thỏa thuận này trong bản án. Xét thấy việc thỏa thuận trên là tự nguyện nên cần tuyên trả xe mô tô cho đại diện gia đình người bị hại là phù hợp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn L phạm “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 260; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn L 03 (ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (21/4/2020).

Giao bị cáo Đặng Văn L về Ủy ban nhân dân xã M L, huyện C T, tỉnh L Đ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Trả cho ông Nguyễn Công H 01 xe Ôtô biển số: 70C - 059.60, số máy: 649063855, số khung 063852.

Trả cho bà Triệu Thị T 01 xe Môtô biển số 93L1 – 309.77, số máy 031249, số khung 044355.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 0009756 ngày 12/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B Đ).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đặng Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho gia đình bị hại, bị đơn dân sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/HSST ngày 21/04/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:11/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về